Các quan điểm về đo lường đánh giá kết quả học
tập
Các quan niệm khác nhau về “kết
quả học tập” như: “Kết quả học tập là bằng chứng sự thành công của người học/sinh
viên về kiến thức, kĩ năng, năng lực, thái độ đã được đặt ra trong mục tiêu
giáo dục” (James Madison University, 2003; James O. Nichols, 2002)”. “Kết quả học
tập là kết quả của một môn học, một chuyên ngành hay của cả một khóa đào tạo”.
“Kết quả học tập của sinh viên bao gồm các kiến thức, kĩ năng và thái độ mà họ
có được. Các kiến thức, kĩ năng này được tích lũy từ các môn học khác nhau
trong suốt quá trình học được qui định cụ thể trong chương trình đào tạo”. Trường
Cabrillo quan niệm về kết quả học tập của
sinh viên “là kiến thức, kỹ năng và thái độ sinh viên đạt được và phát triển
trong suốt khóa học.”[2]
Như vậy, có thể có nhiều cách phát biểu khác nhau nhưng chung lại nội
hàm của khái niệm “kết quả học tập” được hiểu là những kiến thức, kỹ năng và cả
thái độ sinh viên đối với vấn đề họ lĩnh hội được qua từng môn học/ chương
trình học và trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại trường.
Các quan điểm về “ Kiểm tra
đánh giá kết quả học tập”, theo trường cao đẳng cộng đồng bang Baltimore
(CCBC), “Đánh giá kết quả học tập không phải là nói đến tính chính xác cũng
không phải nói đến tính hoàn hảo và lý giải điều đó ở trong đầu với những thông
tin thu thập được. Đánh giá kết quả học tập là một cách tư duy về chất lượng từ
sự sẵn sàng không ngừng kiểm tra, nghi vấn, và khi cần thiết, thay đổi những gì
chúng ta làm.”[2]
Trên thực tế có khá nhiều quan niệm
về đánh giá kết quả học tập, tuy nhiên có thể hiểu khái niệm này một cách rõ
ràng và đầy đủ nhất qua định nghĩa của Rebecca Cartwright, Ken Weiner và
Samantha Streamer-Veneruso: “Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập
thông tin và những thông tin này sẽ thông báo cho cơ sở đào tạo biết liệu rằng
những dịch vụ, hoạt động của cơ sở đào tạo hoặc những thực nghiệm đang được cơ
sở đào tạo áp dụng có tác động như mong muốn lên những người tham gia vào những
dịch vụ, hoạt động hoặc những thực nghiệm đó hay không. Mặt khác cơ sở đó có tạo
ra một sự khác nhau trong đời sống giữa các cá nhân nó phục vụ hay không.”[6]
Như vậy, việc kiểm tra đánh giá
năng lực người học không những cung cấp các thông tin phản hồi tích cực về các
hoạt động học thuật liên quan đến đào tạo đối với cơ sở giáo dục. Điều quan trọng
hơn, qua đo lường đánh giá giúp cho các nhà quản lý, giảng viên đánh giá được kết
quả về tri thức, kỹ năng và cả thái độ về vấn đề mà người học được lĩnh hội
trong suốt quá trình học một khóa học/ lớp
học/ chương trình hay một bậc học so với mục tiêu ban đầu. Đây là cơ sở đầy đủ
nhất để quyết định việc một cá nhân nên tiếp tục một chương trình đào tạo tiếp
theo như thế nào hay lựa chọn một hướng khác để phát triển bản thân trong tương
lai.
Về mặt kỹ thuật trong lý thuyết đo lường và
đánh giá kết quả
học tập
Một bài thi có thể
dùng để (1) phân loại năng lực người học so với mức năng lực nhóm chuẩn và (2)
dùng để miêu tả những kiến thức, kỹ năng người học thành thạo ở mức độ nào so với
mục tiêu đào tạo.[8] Với kiểm tra đánh giá thứ nhất được hiểu là để dùng xác định vị trí
mức năng lực của người học này so với các cá nhân khác trong một lớp học/khóa học
(Ví dụ: Học viên A có mức năng lực đứng
thứ 5 trong một khóa đào tạo cấp chứng nhận “Kỹ thuật viên Tin học” có 50 học
viên ). Trong cách kiểm tra này, kết quả đo lường đánh giá dựa vào hệ quy chiếu
theo nhóm đối chứng (Norm – referenced).
Mỗi cá nhân được so sánh năng lực với những người khác trong cùng nhóm chuẩn,
phép đo này được gọi là phép đo quy về nhóm chuẩn.[9] Dạng Norm thường được dùng cho các bài kiểm tra có một khoảng điểm
đủ rộng để phân biệt trình độ nhận thức, kỹ năng giữa các thí sinh với nhau. Bài
thi tuyển sinh ĐH chính là thuộc loại này và thường các câu hỏi dễ sẽ bị loại bỏ
và những câu hỏi có độ khó trung bình và khó sẽ được sử dụng.
Với cách kiểm tra đánh giá thứ hai,
được hiểu là phép đo dùng để xác định khả năng về nhận thức, kỹ năng và thái độ
về vấn đề mỗi cá nhân lĩnh hội so với một tiêu chí, giá trị được ấn định trước
và không nhằm so sánh với các cá nhân khác (Criterion-referenced)[9] (Ví dụ: Bài kiểm tra
trong một tiết học vật lý nhằm kiểm tra xem mức độ các học sinh trong lớp nắm bắt
chính xác các bộ phận của kính hiển vi và cơ chế hoạt động của nó theo mục tiêu
bài giảng). Ý nghĩa về điểm số của mỗi cá nhân trong trường hợp này không tùy
thuộc vào việc so sánh với điểm số của các thí sinh khác. Trong phép đo loại
này, chúng ta muốn biết mỗi cá nhân có thể làm được những gì một cách cụ thể chứ
không tập trung vào phân loại khả năng của cá nhân ấy so với những người
khác. Các bài thi kiểm tra kết thúc một khóa học/ môn học thường sử dụng dạng
này. Trong đề thi vẫn phải sử dụng những câu hỏi dễ, vì nếu không sử dụng chúng
ta có thể miêu tả không đầy đủ mức độ nắm bắt môn học/ chương trình học của các
cá nhân trong lớp học/ khóa học.
Trong công tác tuyển sinh, khi lựa
chọn một học sinh cho ngành nghề nào, trường nào để học ở ĐH, chúng ta cần dùng
loại trắc nghiệm quy về nhóm chuẩn để có cơ sở định hướng. Bởi, chúng ta cần biết
chính xác khả năng, năng lực nhận thức và kỹ năng của người này so với các học
sinh khác để hoàn thành cùng một chương trình đào tạo (Norm – reference).
Riêng với việc sử dụng loại trắc
nghiệm dựa trên các tiêu chí khi chúng ta cần đánh giá hiệu quả học tập một
chương trình giảng dạy. Đánh giá theo hệ quy chiếu các tiêu chí là đánh giá dựa
trên mục tiêu đã định cho bài học/ chương trình học. Trong GDĐH Việt Nam chúng
ta vẫn thường gọi là “chuẩn đầu ra”, còn các trường ở Hoa kỳ gọi là “learning
outcome”, bao gồm xác định học sinh biết gì, làm được gì, đến mức nào, trong điều
kiện nào.
Như vậy, hai dạng
thức đo lường đánh giá kết quả học tập được sử dụng với các mục tiêu là hoàn
toàn khác nhau và do vậy sẽ là khó khăn khi đưa ra giải
pháp vừa thi đánh giá hoàn thành chương trình THPT với thi tuyển sinh nhằm chọn
người học ĐH, CĐ.
Điển hình trong các kỳ thi trước
khi vào học bậc đại học tại Hoa Kỳ như: ACT (American College Testing) là một kiểu kỳ thi
chuẩn hóa nhằm giúp ban tuyển sinh của các trường đại học (ĐH) đánh giá và so
sánh các đơn xét tuyển. ACT và SAT là 2 kỳ thi song song với nhau, cả hai kỳ
thi đều chung một mục đích và hầu hết các học sinh (HS) chỉ cần thi một trong
hai. ACT ngày càng trở nên phổ biến hơn khi hầu hết các trường ĐH phía Đông Mỹ
bắt đầu chấp nhận cho quá trình nộp đơn tuyển sinh. Theo "tiêu
chuẩn hóa" được hiểu theo một cách nào đó nhằm quá đánh giá giúp người học
bộc lộ những điểm mạnh-yếu trong kiến thức kỹ năng của mình.Triết lý đánh giá
của ACT là kết quả thi được xem như một
chỉ số về năng lực học tâp và sẵn sàng
cho việc học tập ở bậc đại học của HS trung học. Mỗi một cá thể bẩm sinh
đều khác nhau về năng lực trí tuệ, và do đó các bài kiểm tra của ACT không nhằm
đánh giá độ thông minh, hay năng lực trí tuệ của HS, mà chỉ tập trung vào việc
đánh giá những gì HS học được từ trường học và muốn "biết" HS đã
chuẩn bị đủ kiến thức cần thiết để vào học ở bậc đại học hay chưa qua việc nỗ
lực học tập của mình.
Với kỳ thi SAT, đây là một loại
standardized test (trắc nghiệm định chuẩn) mà hết các đại học đều đòi hỏi. Điểm
thi SAT cho biết vị trí thứ hạng (percentile) của cá nhân học sinh so với Nhóm
Mẫu (Norm Group) học sinh toàn quốc. Người ta có thể nhìn vào kết quả bài trắc
nghiệm SAT để biết khả năng hay năng khiếu (aptitude) dự đoán của cá nhân đó
khi vào học đại học như thế nào. Đây là tiêu chuẩn quan trọng được dùng để chọn
học viên vào học bậc đại học tại Hoa Kỳ.[3]
Qua các phân
tích trên, cho thấy việc tuyển sinh vào ĐH, CĐ cần lựa chọn người học có khả
năng nhận thức, khả năng tư duy và vốn kỹ năng cần thiết, phù hợp với ngành
học. Không thể thông qua đánh giá mức độ hoàn thành chương trình phổ thông theo
một mục tiêu riêng để làm cơ sở cho việc chọn lựa người học ở Đại học.
Vậy (1) Có cần thiết là phải đo lường và đánh
giá năng lực người học sau khi kết thúc một chương trình/ khóa học hay không?;
(2) Nếu không đo lường đánh giá năng lực người học sau một khóa học/bậc học thì
sẽ ra sao?; (3) Nếu đo lường đánh giá thì sẽ đo lường đánh giá như thế nào (đo
đúng)?; (4) Có cần phải đo lường và đánh giá đúng năng lực người học trước khi tổ
chức một chương trình/ khóa học/bậc học hay không?; (5) Nếu không thực hiện đo
lường đánh giá đúng năng lực người học thì sẽ đào tạo như thế nào?; v.v... Sẽ có rất nhiều vấn đề nẩy sinh mà chúng ta cần suy ngẫm.