Thứ Tư, 4 tháng 2, 2015

Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của khoa học đo lường trong giáo dục trên thế giới và ở Việt Nam





Khoa học đo lường trong giáo dục có thể xem như bắt đầu cách đây khoảng một thế kỷ (Thorndike,1904). Ở châu Âu và đặc biệt là ở Mỹ, lĩnh vực khoa học này phát triển mạnh vào thời kỳ trước và sau thế chiến thứ hai với vài dấu mốc quan trọng như: Trắc nghiệm trí tuệ Stanford - Binet xuất bản năm 1916, bộ trắc nghiệm thành quả học tập tổng hợp đầu tiên Stanford Achievement Test ra đời vào 1923. Cho đến 1953 việc chấm bài trắc nghiệm đã được thực hiện bằng máy của IBM, kế đến là việc thành lập National Council on Measurement in Education (NCME) vào thập niên 1950 và ra đời Educational Testing Services (ETS) năm 1947, sau đó là American Testing Service (ACT). [7] Từ đó đến nay khoa học về đo lường trong tâm lý và giáo dục vẫn tồn tại, phát triển như là tất yếu của sự phát triển giáo dục. Thực tế là khoa học đo lường trong giáo dục ngày càng đầy đủ hơn các cơ sở khoa học để điều chỉnh những gì còn thiếu sót và khuyết điểm.
Ở một khía cạnh khác, cùng với sự phát triển của công nghệ tính toán, các lý thuyết về đo lường trong giáo dục (cũng như trong tâm trắc học) cũng phát triển rất nhanh bao gồm Lý thuyết Trắc nghiệm cổ điển (Classical Test theory - CTT), Lý thuyết Ứng đáp Câu hỏi (Item Response Theory - IRT), trong đó có mô hình Rasch. Các lý thuyết này phát triển từ chính các nhu cầu của việc đo lường trong giáo dục[12]. Sự ra đời của các lý thuyết này đã đánh dấu những thành tựu quan trọng trong việc nâng cao độ chính xác của trắc nghiệm, là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu các phản ứng của con người trong các khoa học hành vi. Vì vậy mà ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ, các công ty trắc nghiệm ETS, ACT áp dụng IRT cho các kỳ thi quan trọng để có kết quả xét tuyển vào đại học (SAT, ACT), sau đại học (GRE, GMAT…), tuyển dụng giáo viên (NTE); Viện Ý kiến công chúng Mỹ Gallup thiết kế các bản hỏi dùng để thăm dò ý kiến công chúng; các doanh nghiệp thiết kế công cụ để thăm dò ý kiến khách hàng v.v... Ở Mỹ, trắc nghiệm thực sự trở thành một ngành công nghiệp lớn.[7]
Khoa học về đo lường và đánh giá trong giáo dục ở nước ta trước đây trong tình trạng khá lạc hậu và chậm phát triển. Trước năm 1975, ở Miền Nam chỉ có một vài cá nhân được đào tạo về khoa học này từ các nước phương Tây. Trong số đó, điển hình có giáo sư Dương Thiệu Tống (1925-2008) là người đã đưa lý thuyết testing ứng dụng vào ngành giáo dục Việt Nam nhưng không thành công. Sau đó ông chỉ áp dụng ngân hàng câu hỏi vào việc thi kiểm tra đánh giá và đặc biệt áp dụng vào việc thi tuyển sinh đại học. Trường Đại học áp dụng mô hình thi trắc nghiệm đầu tiên ở nước ta là trường Đại học Đà Lạt. Vào năm 1974, kỳ thi tú tài lần đầu tiên được tổ chức ở Miền Nam bằng phương pháp TNKQ. Vào những năm sau 1975, ở miền Bắc cũng có một số cán bộ nghiên cứu về khoa học đo lường trong tâm lý. Đến năm 1993, Bộ GD & ĐT đã mời một số chuyên gia nước ngoài để phổ biến về khoa học này, đồng thời cử cán bộ ra nước ngoài học tập. Từ đó một số trường đại học có tổ chức các nhóm nghiên cứu áp dụng các phương pháp đo lường trong giáo dục để thiết kế các công cụ đánh giá, soạn thảo các phần mềm hỗ trợ, mua máy quét quang học chuyên dụng (OMR) để chấm thi. Kỳ thi tuyển đại học thí điểm được tổ chức tại trường Đại học Đà Lạt vào tháng 7 năm 1996 bằng phương pháp TNKQ. Kỳ thi này có 7200 thí sinh dự tuyển, 2 loại đề TNKQ và TL được sử dụng để thí sinh tự chọn. Có khoảng 70% lượt thí sinh chọn đề TNKQ, bài thi được chấm bằng máy Opscan-7, trong khoảng 60 trường hợp vi phạm kỷ luật thi do quay cóp thì chỉ có 4 thí sinh từ nhóm làm đề TNKQ. [6]
Từ sau năm 1997 các hoạt động đổi mới phương pháp đo lường và đánh giá trong giáo dục ở các trường đại học lắng xuống. Cho đến mùa thi tuyển đại học năm 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức kỳ thi tuyển đại học “3 chung”. Đến năm 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập “Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng” để cải tiến việc thi cử và đánh giá chất lượng các trường đại học, và đã dùng phương pháp trắc nghiệm khách quan để làm đề thi tuyển đại học cho môn Tiếng Anh vào mùa thi 2005-2006. Bắt đầu từ năm học 2006 – 2007, song song với việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập, Bộ GD&ĐT đã có chủ trương đổi mới quá trình KTĐG KQHT của người học. Hiện nay, một vấn đề nhận được rất nhiều sự quan tâm của dư luận cũng như giới học thuật đó chính là vấn đề thay đổi như thế nào để có một kỳ thi quốc gia đảm bảo tính trung thực, ít tốn kém, giảm áp lực lên xã hội và hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo đánh giá đúng năng lực người học.