Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC



ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC
(Nghiên cứu trường hợp tại Trường CĐSP Gia Lai)



Với cách tiếp cận theo quan điểm sinh viên vừa là cộng sự vừa là khách hàng, trường đại học là các tổ chức dân chủ và là nơi cung ứng các dịch vụ đào tạo. Vậy, việc sinh viên tham gia ra quyết định quản trị trong trường như là tất yếu. Ở Việt Nam, vấn đề này chưa được quan tâm xem xét một cách đầy đủ, thấu đáo để vừa đảm bảo các quyền và lợi ích của người học, đồng thời đóng góp vào hiệu quả quản lý các trường ĐH-CĐ. Vậy, mức độ tham gia trong các hoạt động quản trị  của sinh viên hiện nay ra sao? Nhận thức của sinh viên và cán bộ lãnh đạo- quản lý về vai trò sinh viên trong các hoạt động quản trị như thế nào? Những khó khăn nào SV thường gặp phải khi tham gia vào quản trị ? Nghiên cứu này kết hợp nghiên cứu định tính và điều tra khảo sát định lượng được thực hiện trong nghiên cứu trường hợp tại Trường CĐSP Gia Lai. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra trong thực tế sinh viên có tham gia vào các hoạt động quản trị trong phạm vi trường CĐSP Gia Lai. Qua kết quả điều tra, khảo sát, xác định mức độ tham gia của sinh viên trong các hoạt động quản trị nhằm đưa ra các đánh giá ban đầu về vai trò của sinh viên trong quản trị  tại trường CĐSP Gia Lai hiện nay.
Từ khóa: Sinh viên, Vai trò sinh viên, Quản trị đại học

1.    Đặt vấn đề


Trong quản trị (QTĐH), muốn hệ thống quản trị vận hành có hiệu quả cần đặc biệt chú ý đến việc phát huy vai trò các nguồn lực tham gia trong hoạt động QTĐH. Không có gì là quan trọng hơn việc nâng cao chất lượng của Hội đồng quản trị với đầy đủ các đại diện của các bộ phận liên quan trong phạm vi nhà trường nhằm đảm bảo cho sự thành công trong tương lai của các trường  (ĐH).[7] Một trong những bộ phận liên quan được giáo dục  thế giới hết sức quan tâm và nghiên cứu đó chính là sinh viên. Trong thực tế giáo dục  ở các nước có nền giáo dục tiên tiến hiện nay đã chứng minh rằng; sinh viên và các tổ chức sinh viên là bộ phận có liên quan và vai trò của họ là đáng kể trong phạm vi trường ĐH. Vấn đề sinh viên tham gia vào việc ra quyết định trong các trường ĐH là một chủ đề trong các cuộc tranh luận học thuật từ vài thế kỷ trước[9] qua các nghiên cứu như: Báo cáo của Duff- Berdahl được phát hành vào năm 1966, trong báo cáo trên, các tác giả cho thấy họ mong muốn xem xét vai trò của sinh sinh viên trong tương lai.[11] Nghiên cứu của Earl J. McGrath (1970)[10]trình bày về các lý do chấp nhận và phản đối sự tham gia của sinh viên trong QTĐH.  Nghiên cứu thể chế sinh viên của Zuo Bing (1999) đã chứng minh rằng sinh viên hoàn toàn có khả năng điều hành công việc, có thể đáp ứng được các nhu cầu khác nhau để bảo vệ các lợi ích chính trị của sinh viên.[6] Tác giả Thierry M Luescher (2008) nghiên cứu xây dựng mô hình trường ĐH dân chủ để cung cấp một quan điểm lý thuyết và thực nghiệm về sự tương tác giữa các trường ĐH dân chủ, và gia tăng sự ảnh hưởng của sinh viên đến các hoạt động quản lý, điều hành trong QTĐH.[34] Gần đây, các cuộc tranh luận về nghệ thuật quản trị hiện đại đã nhận định rằng sinh viên hầu như không có được các tính năng của nhà quản trị thực thụ, trừ khi xem xét họ là các khách hàng[8]. Do vậy, để tiếp tục mở rộng sự tham gia của sinh viên trong QTĐH, từ ngày 12-14 tháng 6 năm 2003 tại Oslo- Na Uy, các bộ trưởng bộ GD Châu Âu tổ chức hội thảo với chủ đề “Vai trò của sinh viên trong QTĐH” (Student participation in governance in higher education) nhằm thống nhất về vai trò của sinh viên trong trường ĐH và đề xuất các giải pháp chung. Một chủ đề được thảo luận trong hội thảo này là sinh viên: người cộng sự hay khách hàng?”. Đa số đại biểu nhất trí rằng cần phải xem sinh viên vừa là khách hàng vừa là người cộng sự. [1]
Ở Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của người học đã được khẳng định trong luật GD, trong điều lệ trường ĐH- CĐ, trong quy chế đào tạo, quy chế HS-SV, trong các bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng,v.v…Ví dụ, quy chế 42/2007 (Quy chế HSSV) của Bộ GD& ĐT có ghi: Sinh viên “Được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị với nhà trường các giải pháp góp phần xây dựng nhà trường; được đề đạt nguyện vọng và khiếu nại lên Hiệu trưởng giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích chính đáng của HSSV”[12]. Mặc dù vậy, cho đến nay chưa nhiều những nghiên cứu về vấn đề sinh viên trong QTĐH. Nhìn chung, các nghiên cứu về vấn đề này ở trong nước còn rất hạn chế. Cho nên, việc đánh giá chính xác về vai trò, vị trí của sinh viên, các tổ chức sinh viên trong công tác QTĐH ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn. Muốn thực hiện được là cả một quá trình lâu dài, dựa trên nền tảng lý luận và thực tiễn vững chắc, phải được sự quan tâm đầu tư của toàn xã hội. Chúng ta cần có các công trình nghiên cứu và đánh giá nghiêm túc các tồn tại trong công tác QTĐH ở Việt Nam nói chung, bao gồm vấn đề vai trò của sinh viên trong các hoạt động QTĐH. Điều này không chỉ phù hợp đối với các trường ĐH trên thế giới mà còn rất cần được quan tâm trong các trường ĐH-CĐ ở Việt Nam hiện nay. Do vậy, tác giả chọn nghiên cứu đánh giá vai trò của sinh viên trong QTĐH là hoàn toàn hợp lý. Qua đó, cung cấp góc nhìn mới vào bức trang toàn cảnh về vấn đề sinh viên trong QTĐH hiện nay tại Việt Nam.
Tuy nhiên, nẩy sinh vấn đề là lý do nào để chấp nhận sinh viên tham gia vào quản trị nhà trường và cơ sở nào để đo lường đánh giá vai trò của sinh viên trong QTĐH. Sau nghiên cứu sơ bộ, tác giả đề xuất vận dụng mô hình quản trị phổ biến nhất trong quản trị các trường ĐH Hoa Kỳ hiện nay đó là mô hình quản trị chia sẻ (shared governance)[3]. Bởi trong mô hình quản trị chia sẻ (shared governance), thẩm quyền và quyền lực được phân phối cho nhiều người, các hoạt động quản trị luôn được nhiều thành viên khác nhau trong nhà trường cùng tham gia thực hiện, trong đó có sinh viên. Đồng thời,  để đảm bảo cơ sở lý thuyết cho việc điều tra, khảo sát định lượng về mức độ tham gia và nhận thức vai trò của sinh viên trong các hoạt động QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai, tác giả đề xuất vận dụng các mức độ tham gia theo khuyến nghị được nêu ra tại Hội thảo Oslo, Na Uy diễn ra từ ngày 12-14/6/2003 đó là 3 mức độ gồm; (1) Tham vấn (advising),(2) Giám sát (monitoring), (3) Ra quyết đinh (decision making). Bên cạnh đó, để đưa ra các chỉ báo chính xác phục vụ thiết kế bảng hỏi đảm bảo tính xác thực và tin cậy, tác giả còn kết hợp với các quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về quyền và trách nhiệm của người học trong nhà trường nói chung, trong công tác quản lý, quản trị trường tại trường CĐSP Gia Lai nói riêng.
Tổ chức trường ĐH cũng là một tổ chức xã hội, tồn tại các quan hệ xã hội khác nhau, với vai trò và vị thế của các cá nhân khác nhau trong đó có vai trò và vị thế của sinh viên [4]. Vì vậy, muốn SV gia nhập vào tổ chức trường ĐH một cách tích cực, có ý nghĩa thì không chỉ mỗi cá nhân SV mà tất cả các cá nhân khác, bộ phận khác cần phải ý thức rõ vị trí, vị thế, vai trò của sinh viên trong tổ chức trường ĐH. Trong bài viết này, thống nhất cách hiểu về vai trò của sinh viên trong QTĐH là việc từng cá nhân sinh viên thể hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn của mình ở các mức độ khác nhau tùy vào từng hoạt động cụ thể theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, theo các chuẩn mực về vai trò và vị trí của sinh viên trong QTĐH trên thế giới khi sinh viên tham gia đóng góp vào các hoạt động QTĐH.
Để đảm bảo cơ sở lý thuyết cho việc điều tra, khảo sát định lượng, trong nghiên cứu đề xuất sử dụng 3 mức độ tham gia của sinh viên theo khuyến nghị tại hội Hội nghị của 29 bộ trưởng bộ GD các nước Châu Âu diễn ra từ ngày 12-14/6/2003 tại Oslo, Na Uy nhằm xác định các mức độ tham của sinh viên trong các hoạt động QTĐH đó là: 1/Tham vấn (advising), 2/Giám sát (monitoring), 3/ Ra quyết đinh (decision making).[5]
+ Tham vấn: Có thể hiểu là được lấy ý kiến về một hay nhiều vấn đề nào đó. Theo tài liệu tập huấn về công tác tham vấn cho trẻ em của Quỹ Nhi đồng Liên hợp Quốc (UNICEF)- năm 2005 tại Hà NộiTham vấn không giống như một cuộc nói chuyện. Tham vấn là một mối quan hệ, một quá trình trong đó nhà tham vấn giúp thân chủ cải thiện cuộc sống của họ bằng cách khai thác, hiểu và nhìn  nhận được nội dung, ý nghĩa, cảm giác và hành vi của họ. Nhà tham vấn không giải quyết vấn đề cho thân chủ”. Như vậy, trong QTĐH, người tham vấn ở đây được hiểu chính là sinh viên, còn người được tham vấn chính là các cán bộ lãnh đạo, quản lý trong trường ĐH. Thông quan các hoạt động tham vấn sinh viên, sẽ giúp cho các nhà quản trị có thêm những lựa chọn, tính toán  trong việc ra các quyết định, quyết sách trong phạm vi trường ĐH được hợp lý và hiệu quả hơn.
+ Giám sát: Trong bài viết này, thống nhất cách hiểu giám sát là việc sinh viên kết hợp với các bộ phận có liên quan trong trường ĐH thực hiện việc thu thập và phân tích các thông tin về việc thực hiện các mục tiêu, kế hoạch chiến lược cũng nhưng những mục tiêu, kế hoạch và các hoạt động đào tạo, nghiên cứu hằng năm trong nhà trường. Qua những thông tin thu thập được sẽ giúp các nhà có chức trách trong nhà trường kịp thời ra các quyết định đầy đủ cơ sở khoa học và tạo nền tảng cho việc đánh giá, rút kinh nghiệm những hoạt động đào tạo và nghiên cứu, v.v...
+ Ra quyết định: Trong bài viết này, thống nhất cách hiểu vai trò ra quyết định của sinh viên chính là việc sinh viên với năng lực nhận thức, những hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân có thể đóng góp vào nội hàm của các khái niệm trong các quyết định thông qua việc cung cấp kịp thời, đầy đủ và có chọn lọc các thông tin về các hoạt động mà sinh viên có tham gia. Từ đó, trong giới hạn về quyền và nghĩa vụ của mình sinh viên có thể lựa chọn các đóng góp tích cực, hiệu quả vào việc ra các quyết định có liên quan trong phạm vi trường ĐH. [2]
-   Quản trị đại học  
Theo một số tác giả, trong tiếng Việt chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa các khái niệm “quản trị” (governance), “quản lý” (administration), “điều hành” (management). Việc sử dụng như thế nào một trong ba thuật ngữ này phụ thuộc nhiều vào tình huống cũng như lĩnh vực áp dụng. Tác giả Phạm Thị Ly (2009) cho rằng, trong Tiếng Việt dường như không có sự phân biệt rõ rang giữa “governance” (quản trị), “administration” (quản lý) và “management” (điều hành) mà thường được dịch sang Tiếng Việt thành “quản lý” với ý nghĩa ít nhiều khác nhau tùy theo bối cảnh sử dụng.[3]
Trong bài viết này, thống nhất cách hiểu và sử dụng QTĐH là khái niệm dùng để chỉ quá trình và các hoạt động liên quan tới việc hoạch định, định hướng mọi hoạt động tổ chức. Đồng thời QTĐH là quá trình hướng dẫn giám sát việc thực hiện các mục tiêu của trường ĐH thông qua các kế hoạch chiến lược, các chính sách, các cơ chế, các quy tắc và các giá trị chung để đạt được mục tiêu và sứ mạng chung của nhà trường bằng và thông qua các bên có liên quan.
3.    Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là toàn thể cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện đang công tác, giảng dạy và toàn thể sinh viên năm 2 và năm 3 các lớp hệ cao đẳng chính quy đang học tập tại trường CĐSP Gia Lai. Nghiên cứu tập trung vào khảo sát mức độ tham gia của sinh viên, nhận thức của sinh viên về vai trò của sinh viên trong các hoạt động quản trị trong nhà trường để đưa ra các đánh giá ban đầu về vai trò của sinh viên trong QTĐH. Việc đánh giá vai trò của sinh viên thông qua mức độ tham gia, đóng góp của sinh viên vào việc thực hiện các chức năng quản trị: 1/ Hoạch định chiến lược đào tạo; 2/ Tổ chức và điều hành công việc; 3/Kiểm tra/kiểm soát các hoạt động của tổ chức trong các hoạt động QTĐH gồm: 1. quản trị hệ thống tổ chức; 2. quản trị hoạt động đào tạo; 3. quản trị nguồn nhân lực; 4. quản trị hoạt động khoa học và công nghệ. Trong nghiên cứu sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng nhằm đi sâu, khám phá và phản ánh đầy đủ, chính xác mức độ tham gia, nhận thức của chính sinh viên, CBLĐ- QL về vai trò của sinh viên trong các hoạt động QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai. Những phương pháp nghiên cứu bao gồm: Phương pháp phân tích tài liệu; Phương pháp phỏng vấn sâu; Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; Xử lý và phân tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS 17 và Excel 2007.
Quy trình nghiên cứu gồm 5 bước, bắt đầu từ nghiên cứu sơ bộ cho đến khi khảo sát chính thức, thu thập và xử lý dữ liệu phục vụ viết báo cáo. Sau nghiên cứu sơ bộ, có được bộ công cụ thập dữ liệu gồm phiếu khảo sát thông tin định lượng đối với sinh viên và phiếu gợi ý phỏng vấn sâu nhóm cán bộ LĐ-QL. Để thu thập thông tin chính phục vụ cho nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi đối với sinh viên và phỏng vấn sâu đối với các CBLĐ- QL các cấp trong nhà trường. Với khảo sát định lượng, tính đại diện của mẫu nghiên cứu được đảm bảo bằng cách chọn ngẫu nhiên hệ thống. Dung lượng mẫu là 377 sinh viên (377/900 SV) trong nghiên cứu trường hợp được thực hiện tại trường CĐSP Gia Lai. Với phỏng vấn sâu, mẫu nghiên cứu được chọn chủ đích và thực hiện phỏng vấn sâu 12 người là CBLĐ- QL các cấp trong nhà trường nhằm bổ sung thêm các thông tin định tính và là cơ sở đối sánh với kết quả khảo sát định lượng từ sinh viên.
Theo đề xuất ban đầu, có 3 mức độ sử dụng để đánh giá sự tham gia của sinh viên trong 4 hoạt động QTĐH trong phạm vi nghiên cứu. Tuy nhiên, xét trong thực tế hoạt động quản lý trong các trường ĐH-CĐ hiện nay, căn cứ các quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quyền và thẩm quyền của sinh viên ở Việt Nam cho thấy, hầu như sinh viên chỉ mới tham gia ở hai mức độ là Tham vấnGiám sát. Do vậy, trong nghiên cứu chỉ có 2 mức độ được sử dụng và có 21 biến định lượng để đo lường mức độ tham gia, đo lường mức độ nhận thức của sinh viên về vai trò của sinh viên trong các hoạt động quản trị bao gồm: 6 biến quan sát trong khảo sát các hoạt động quản trị hệ thống tổ chức; 5 biến quan sát trong khảo sát các hoạt động quản trị nguồn nhân lực; 7 biến quan sát trong khảo sát các hoạt động quản trị hoạt động đào tạo và 3 biến quan sát trong khảo sát các hoạt động quản trị hoạt động khoa học và công nghệ. Sau khảo sát, tác giả phân tích và đánh giá thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA và kiểm định hệ số tin cậy Cronbach Alpha. Kết quả là các biến quan sát trong 4 nhóm biến quan sát không bị loại bỏ và thang đo được sử dụng trong nghiên cứu là phù hợp.
Ngoài ra, trong khảo sát định lượng có 8 biến dùng để khảo sát, đánh giá các khó khăn có ảnh hưởng đến sinh viên khi tham gia vào QTĐH và 8 biến dùng để khảo sát để đưa ra các đề xuất về giải pháp nhằm tạo điều kiện cho sinh viên tham gia vào QTĐH. 

4.    Kết quả nghiên cứu

-  Kết quả phỏng vấn sâu nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong nhà trường
Trong nghiên cứu, thực hiện phỏng vấn sâu 12 người là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong nhà trường nhằm thu thập những ý kiến, những phân tích, nhận định và đánh giá của các cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong nhà trường xoay quanh một số các nội dung như: quyền và khả năng, năng lực của sinh viên trong các hoạt động QTĐH; đánh giá thực tế vấn đề sinh viên tham gia QTĐH trong nhà trường hiện nay; những lợi ích mạng lại nếu sinh viên tham gia vào quản trị nhà trường; tìm hiểu một số các khó khăn trở ngại và đồng thời đưa ra các giải pháp khắc phục. Qua phỏng vấn sâu, giúp nhà nghiên cứu nắm bắt được quan điểm của các cán bộ lãnh đạo, quản lý về vai trò của sinh viên trong QTĐH, các khó khăn và trở ngại sinh viên có thể gặp phải khi tham gia vào QTĐH trong trường. Bên cạnh đó, phỏng vấn sâu còn giúp tìm hiểu, khám phá sâu các chiều cạnh khác nhau về vấn đề vai trò của sinh viên trong QTĐH. Kết quả phân tích dữ liệu từ băng ghi âm phỏng vấn sâu nhóm CBLD-QL (12 người) các cấp trong nhà trường cụ thể như sau:
Khi được hỏi về quyền và khả năng tham gia đóng góp của sinh viên vào các hoạt động quản trị trong nhà trường, có 12/12 ý kiến (100%) cho rằng sinh viên là một bên có liên quan đến các lợi ích trong phạm vi nhà trường, vì vậy sinh viên cũng chịu trách nhiệm trong việc xây dựng phát triển nhà trường. Sinh viên hoàn toàn có quyền và có đủ năng lực nhận thức, kiến thức cũng như kinh nghiệm để có thể tham gia vào các hoạt động nói chung, các hoạt động quản trị trong nhà trường nói riêng.
Có 8/12 ý kiến (66.67%) cho rằng việc sinh viên tham gia vào các hoạt động quản trị nhà trường là quan trọng. Theo các ý kiến, nếu xét theo quan điểm trường ĐH là một tổ chức dân chủ, là nơi cung ứng dịch vụ thì sinh viên có đầy đủ vai trò, vị trí và vị thế trong tổ chức nên những đóng góp của sinh viên là không thể thiếu trong việc xây dựng và phát triển các tổ chức trường ĐH. Có 4/12 ý kiến (33. 33%) cho rằng chưa hoặc ít cần thiết phải có sự tham gia của sinh viên vào công tác tổ chức, quản lý nhà trường.
Khi được hỏi về thực tế sự tham gia của sinh viên trong các hoạt động quản trị tại trường CĐSP Gia Lai hiện nay như thế nào? Có 10/12 ý kiến (83.33%) cho rằng sinh viên có tham gia trong hầu hết các hoạt động quản trị trong nhà trường có liên quan đến người học. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau nên những đóng góp của sinh viên là không đáng kể và vai trò của họ là tương đối mờ nhạt.
Khi được hỏi về những lợi ích, những ảnh hưởng tích cực có thể mang lại đối với hiệu quả QL, quản trị trong nhà trường từ sự tham gia vào các hoạt động quản trị của sinh viên. Kết quả có 11/12 ý kiến (91.67%) cho rằng: nếu sinh viên có cơ hội tham gia vào các hoạt động quản trị nhà trường thì trước hết nó phát huy được tính dân chủ và tạo ra động lực để các cá nhân trong tổ chức tự giác tham gia đóng góp, xây dựng phát triển nhà trường. Bên cạnh đó, việc chấp nhận sinh viên tham gia vào các hoạt động QTĐH là tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội học tập, rèn luyện để phát triển năng lực xã hội, năng lực công dân của chính mình và đây chính là một trong những mục tiêu của giáo dục hiện đại.
Khi được hỏi về những khó khăn, trở ngại sinh viên thường gặp phải khi tham gia vào các hoạt động quản lý, quản trị trong nhà trường. Có 12/12 ý kiến (100%) cho rằng sinh viên gặp không ít khó khăn khi tham gia vào công tác quản trị trong nhà trường. Trong số những khó khăn được nêu ra, có không ít các khó khăn về vấn đề cơ chế, chính sách quản lý, hay chưa có các quy định và tiền lệ về sự tham gia của sinh viên trong công tác quản lý nhà trường. Bên cạnh đó là một số khó khăn xuất phát từ chính bản thân người học. Kết quả xoay quanh một số các khó khăn về khách quan như: Chưa có những qui định c thể về vai trò, chc năng và quyn lợi ca sinh viên trong các đơn vị quản trị từ cp bộ môn cho đến cấp trường; Chưa có những chế độ, chính sách hợp lý về lâu dài cũng như ngắn hạn để khuyến khích sự tham của sinh viên trong các hoạt động QTĐH; Không có nhiều cơ hội để sinh viên có thể chia sẻ trách nhiệm trong các hoạt động quản trị trong nhà trường; sinh viên hầu như chưa nhận được sự tin tưởng của các bên liên quan như cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ nhân viên, giảng viên,  v.v…Bên cạnh đó, các khó khăn xuất phát từ phía người học cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc sinh viên tham gia vào QTĐH như: sinh viên còn hạn chế về năng lực nhận thức, về kiến thức quản trị; sinh viên còn hạn chế về kinh nghiệm quản lý, quản trị; sinh viên còn thiếu tự tin; sinh viên còn hạn chế về tầm ảnh hưởng đến việc ra các quyết định liên quan đến sinh viên.v.v…
Cuối cùng, khi được hỏi làm thế nào để có thể tạo cơ hôi cho sinh viên tham gia nhiều hơn vào công tác quản trị trong nhà trường, đa số người được hỏi đều cho rằng cần phải có định hướng lâu dài và các kế hoạch cụ thể về vấn đề sinh viên tham gia công tác quả lý nhà trường. Cần có các giải pháp thiết thực, gắn liền những hạn chế đã nêu ra để nhằm đề ra các giải pháp khắc phục những khó khăn chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến việc sinh viên tham gia vào công việc đóng góp xây dựng và phát triển nhà trường.
Về Mức độ tham gia:
Số liệu ở Hình 4.1 cho ta thấy, tại trường CĐSP Gia Lai, mức độ tham gia của sinh viên là rất thấp và hầu như sinh viên không bao giờ được tham gia trong hầu hết các hoạt động quản trị. Ví dụ như, trong các hoạt động quản trị hệ thống tổ chức (mean =1.72), quản trị nguồn nhân lực (mean =1.75), quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ (mean =1.44). Trong đó, mức độ tham gia của sinh viên vào các hoạt động quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ là thấp nhất (mean=1.44), mức độ tham gia của sinh viên trong các hoạt động trong quản trị hoạt động đào tạo có cao hơn nhưng chênh lệch là không nhiều (mean =1.94).
Về Mức độ nhận thức:
Số liệu ở Hình 4.1 cho ta thấy, đa số sinh viên đều cho rằng họ có vai trò quan trọng trong hầu hết các hoạt động quản trị (mean =3.89). Ví dụ, trong các hoạt động quản trị hệ thống tổ chức (mean =4.02), quản trị nguồn nhân lực (mean =3.81), quản trị hoạt động đào tạo (mean =4.14), quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ (mean =3.58). Trong đó, nhận thức của sinh viên về vai trò của bản thân trong quản trị hoạt động đào tạo là cao nhất (mean =4.14), nhận thức về vai trò của bản thân họ trong các hoạt động trong quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ là thấp nhất (mean =3.59).
Hình 4.1. Biểu đồ so sánh mức độ tham gia trong thực tế vài mức độ nhận thức của sinh viên về vai trò sinh viên trong hoạt động QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai
-  Kết quả khảo sát những thách thức, khó khăn đối với sinh viên khi tham gia vào các hoạt động QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai
Kết nghiên cứu được thể hiện ở Hình 4.2 cho thấy, đa số sinh viên được hỏi đều cho rằng các yếu tố được nêu ra đều là những tác nhân gây khó khăn, trở ngại đối với sinh viên khi họ tham gia vào các hoạt động QTĐH trong trường CĐSP Gia Lai cụ thể:
Bảng 4.1. Thống kế tỷ lệ % kết quả thống kê các nhóm yếu tố gây khó khăn, trở ngại

TT
Đề xuất đối với các yếu tố khách quan
Đề xuất đối với các yếu tố chủ quan
1
80,6%
73,1%
2
100,0%
96,9%
3
100,0%
99,2%
4
93,9%
98,1%
Trung bình %
93,63%
91,83%

Qua kết quả Bảng 4.2 cho thấy, trong 8 yếu tố tác động và hạn chế sự tham gia của sinh viên trong QTĐH, gồm nhóm các yếu tố khách quan (từ 1 đến 4) và nhóm các yếu tố chủ quan (từ 5 đến 8). Kết quả có trung bình tỷ lệ phần trăm lựa chọn nhóm các yếu tố khách quan là 93.63%, trung bình tỷ lệ phần trăm lựa chọn nhóm các yếu tổ chủ quan là 91.83%. Qua kết quả, cho thấy sinh viên cho rằng ảnh hưởng của nhóm yếu tố khách quan đến sự tham gia của sinh viên trong các hoạt động quản trị là cao hơn so với nhóm các yếu tố chủ quan.
-  Kết quả khảo sát ý kiến nhằm đề xuất các giải pháp cần thiết để tạo cơ hội cho sinh viên tham gia nhiều hơn vào QTĐH trong nhà trường
Qua căn cứ vào các yếu tố chủ quan và khác quan có ảnh hưởng đến sự tham gia của sinh viên trong các hoạt động quản trị, tác giả đề xuất 8 giải pháp và tiến hành khảo sát. Trong đó, bao gồm nhóm giải pháp nhằm giải quyết các yếu tố khó khăn, trở ngại khách quan (1 đến 4) và nhóm giải pháp nhằm giải quyết các yếu tố khó khăn, trở ngại chủ quan (5 đến 8). Số liệu ở Hình 4.3 cho thấy, đa số sinh viên được hỏi đều cho rằng để tạo các điều kiện thuận lợi nhằm hỗ trợ cho sinh viên có thể tham gia, chia sẻ trách nhiệm trong công tác QTĐH trong nhà trường, việc đề xuất các giải pháp là hết sức cần thiết. Với kết quả khảo sát được ở Bảng 4.2 có, có trung bình chung tỷ lệ phần trăm đề xuất nhóm giải pháp khách quan là 98.70%, trung bình chung tỷ lệ phần trăm đề xuất nhóm giải pháp chủ quan là 88.18%. Qua kết quả thống kê cho thấy, đa số sinh viên cho rằng rất cần thiết phải có giải pháp để khắc phục các khó khăn, trở ngại khách quan lẫn chủ quan, trong đó các giải pháp khắc phục các yếu tố trở ngại khác quan là cần thiết hơn như: cần có các chế độ, chính sách hợp lý để tạo điều kiện cho sinh viên tham gia vào công tác quản trị nhà trường, cần có những qui định cụ thể về vai trò, chức năng, quyền lợi của các đại biểu là sinh viên trong các đơn vị quản trị từ cấp bộ môn cho đến cấp trường, hay sinh viên cần được tạo cơ hội để chia sẻ trách nhiệm trong các hoạt động quản trị, v.v…
Bảng 4.2. Thống kê tỷ lệ phần trăm kết quả đề xuất nhằm giải quyết  các nhóm yếutố gây khó khăn, trở ngại

TT
Đề xuất đối với các yếu tố khách quan
Đề xuất đối với các yếu tố chủ quan
1
99,20%
88,60%
2
98,90%
95,80%
3
100,00%
93,60%
4
96,70%
74,70%
Trung bình tỷ lệ %
98,70%
88,18%

 

5.    Diễn giải kết quả và kết luận

Qua kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: Dù mức độ tham gia của sinh viên trong các hoạt động quản trị là rất thấp. Tuy nhiêu, sinh viên đã và đang có tham gia vào QTĐH trong phạm vi trường CĐSP Gia Lai, phù hợp với các quy định về quyền và nghĩa vụ của người học. Cụ thể;
Ngoại trừ trong một số rất ít các hoạt động của quản trị hệ thống tổ chức, quản trị nguồn nhân lực và trong các hoạt động của QT hoạt động đào tạo là sinh viên có tham gia nhưng hiếm khi sinh viên mới tham gia. Còn lại trong các hoạt động quản trị khác, hầu như sinh viên không bao giờ được tham gia. Do vậy, nhìn chung những đóng góp của sinh viên trong công tác quản trị nhà trường là không đáng kể, vai trò của sinh viên còn rất mờ nhạt trong công tác QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai hiện nay. Trong một số hoạt động quan trọng có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của người học, có khi sinh viên không đóng góp vai trò gì. Ví dụ, tham gia giám sát các hoạt động giảng dạy của giảng viên; tham vấn về việc đánh giá cán bộ nhân viên, giản viên; tham gia giám sát việc tổ chức thực hiện các quy chế đào tạo,v.v…
Kết quả nghiên cứu được còn chỉ ra một nghịch lý, trong thực tế thì mức độ tham gia của sinh viên trong các hoạt động QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai là rất thấp, sự đóng góp của sinh viên là không đáng kể, vai trò của sinh viên còn rất mờ nhạt. Nhưng ở phương diện nhận thức, đa số các sinh viên, cũng như các cán bộ lãnh đạo, quản lý đều cho rằng sinh viên cần có một vai trò quan trọng đến mức rất quan trọng trong hầu hết các hoạt động QTĐH đã được khảo sát tại trường CĐSP Gia Lai.
Qua so sánh, đối sánh kết quả khảo sát thu thập thông tin định lượng từ sinh viên và kết quả phỏng vấn sâu nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý trong nhà trường đã cho thấy có những điểm tương đồng về nhận thức về những tồn tại của vấn đề sinh viên tham gia vào QTĐH trong nhà trường. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, sinh viên tham gia vào công tác QTĐH trong nhà trường thường vấp phải nhiều khó khăn, trở ngại. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan như: Còn thiếu những qui định c thể về vai trò, chc năng, quyn lợi ca c sinh viên trong các đơn vị quản trị từ cp bộ môn cho đến cấp trường; Chưa có những chế độ, chính sách hợp lý mang tính dài hạn cũng như ngắn hạn; sinh viên thiếu các cơ hội để có thể chia sẻ trách nhiệm trong các hoạt động QTĐH trong nhà trường; sinh viên chưa hoàn toàn nhận được sự tin tưởng của các bên liên quan; Chưa có một tiền lệ tốt và cơ sở pháp lý đầy đủ về việc sinh viên có thể tham gia vào thể chế chính trị trong nhà trường,v.v… Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, một số các khó khăn xuất phát từ chính bản thân người học làm hạn chế và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc sinh viên tham gia vào QTĐH như: sinh viên còn hạn chế về năng lực nhận thức và chưa nhận thức đầy đủ về quyền và trách nhiệm của mình, còn thiếu kiến thức về quản trị; sinh viên còn hạn chế về kinh nghiệm quản lý, quản trị; tầm ảnh hưởng đến việc ra các quyết định liên quan đến sinh viên của sinh viên còn hạn chế .v.v…
Kết quả nghiên cứu được là hoàn toàn hợp lý với bối cảnh của trường CĐSP Gia Lai hiện nay. Xuất phát từ lý do khá phổ biến đó là cơ chế tổ chức, quản lý các trường ĐH tại Việt Nam và không loại trừ trường hợp được nghiên cứu. Ở Việt Nam, Bộ GD&ĐT quản lý chung tất cả các trường ĐH-CĐ về mặt chuyên môn và hành chính. Vì vậy, các trường ĐH-CĐ gần như không có cơ hội thực hiện các hoạt động quản trị, mà chỉ là thực thi quản lý cao cấp, với nhiệm vụ chính là tổ chức thực hiện những chính sách và quy định của Bộ. Cũng chính lý do này, mà nhà trường còn lúng túng và không định hình rõ ràng về mô hình QTĐH, còn khó khăn và chưa thành lập được HĐT với số lượng và các thành phần khác nhau, còn thiếu các cơ chế, các chủ trương chính sách, các quy định cần thiết và tạo một tiền lệ tốt để sinh viên có cơ hội tham gia, đóng góp và thể hiện vai trò của mình trong công tác QTĐH trong nhà trường. 
Trên cơ sở những phân tích về kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số gợi ý góp phần vào việc thay đổi phần nào cung cách, cách thức hoạch định, tổ chức - điều hành và kiểm tra giám sát các hoạt động đào tạo, nghiên cứu tại trường CĐSP Gia Lai. Cụ thể:
§ Ban lãnh đạo nhà trường cần linh hoạt, chủ động trong việc hoạch định, tổ chức, quản lý, điều hành và kiểm tra giám sát các hoạt động đào tạo, nghiên cứu trong phạm vi nhà trường để vừa đảm bảo đúng quy chế, vừa có thể phát huy hết sự đóng góp của các bên liên quan, trong đó có sinh viên. Ví dụ, cần cụ thể hóa sự tham gia và đóng góp của sinh viên vào trong kế hoạch năm học của trường, của các Phòng- Khoa- Ban- Tổ trực thuộc.
§ Nhà trường cần ban hành các quy định, hướng dẫn cụ thể về thành phần, số lượng sinh viên trong các Hội đồng nhà trường, các tổ chức Đoàn thể như: Hội đồng khoa học, Hội đồng xét thi đua khen thưởng, Hội đồng kỷ luật, Ban thanh tra trường học, v.v…. Bên cạnh đó, nhà trường cần có các chế độ khen thưởng, khuyến khích đối với các sinh viên có thành tích đóng góp vào hiệu quả QTĐH trong nhà trường như: Cấp học bổng cho các sinh viên có thành tích tốt trong QTĐH, cấp chứng nhận thành tích tham gia, cho phép kéo dài thời gian học đối với các đại biểu sinh viên tham gia vào QTĐH, v.v…
§  Hằng năm, nhà trường cần có kế hoạch để tổ chức các lớp học tập, tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của người học đối với việc xây dựng và phát triển nhà trường. Ví dụ, kết hợp với tuần sinh hoạt chính trị đầu năm để giáo dục, tuyên cho người học nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ người học. Qua đó, nhằm giúp nâng cao năng lực nhận thức, kiến thức và tích lũy kinh nghiệm quản trị cho sinh viên.





and university governance, Philadelphia, Temple University Press.







 

Không có nhận xét nào: