ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC
(Nghiên cứu trường hợp tại Trường CĐSP Gia Lai)
Với cách tiếp cận
theo quan điểm sinh viên vừa là cộng sự vừa là khách hàng, trường đại học là các tổ chức dân chủ và là nơi cung ứng
các dịch vụ đào tạo. Vậy, việc sinh viên tham gia ra quyết định quản trị trong trường như là tất yếu. Ở Việt Nam, vấn đề này chưa
được quan tâm xem xét một cách đầy đủ, thấu đáo để vừa đảm bảo các quyền và lợi
ích của người học, đồng thời đóng góp vào hiệu quả quản lý các trường ĐH-CĐ. Vậy,
mức độ tham gia trong các hoạt động quản trị của sinh viên hiện nay ra sao? Nhận thức của
sinh viên và cán bộ lãnh đạo- quản lý về vai trò sinh viên trong các hoạt động
quản trị như thế nào? Những khó khăn nào SV thường gặp phải khi tham gia vào quản
trị ? Nghiên cứu này kết hợp nghiên cứu định tính và điều tra khảo sát định
lượng được thực hiện trong nghiên cứu trường hợp tại Trường CĐSP Gia Lai. Kết
quả nghiên cứu đã chỉ ra trong thực tế sinh viên có tham gia vào các hoạt động
quản trị trong phạm vi trường CĐSP Gia Lai. Qua kết quả điều tra, khảo sát, xác
định mức độ tham gia của sinh viên trong các hoạt động quản trị nhằm đưa ra các
đánh giá ban đầu về vai trò của sinh viên trong quản trị tại trường CĐSP Gia Lai hiện nay.
Từ khóa: Sinh viên, Vai trò sinh viên, Quản trị đại
học
1. Đặt vấn đề
Trong quản trị (QTĐH), muốn hệ thống quản trị vận hành có
hiệu quả cần đặc biệt chú ý đến việc phát huy vai trò các nguồn lực tham gia
trong hoạt động QTĐH. Không có gì là quan trọng hơn việc nâng cao
chất lượng của Hội đồng quản trị với đầy đủ các đại diện của các bộ phận liên quan trong
phạm vi nhà trường nhằm đảm bảo cho sự thành
công trong tương lai của các trường (ĐH).[7] Một trong
những bộ phận liên quan được giáo dục thế giới hết sức quan tâm và nghiên cứu đó
chính là sinh viên. Trong thực tế giáo dục ở các nước có nền giáo dục tiên tiến hiện nay
đã chứng minh rằng; sinh viên và các tổ chức sinh viên là bộ phận có liên quan
và vai trò của họ là đáng kể trong phạm vi trường ĐH. Vấn đề sinh viên tham gia
vào việc ra quyết định trong các trường ĐH là
một chủ đề trong
các cuộc tranh luận học thuật từ
vài thế kỷ trước[9] qua các nghiên cứu như: Báo cáo của Duff- Berdahl được phát hành vào năm 1966, trong báo cáo trên, các
tác giả cho thấy họ mong muốn xem xét vai trò của sinh sinh viên trong tương
lai.[11] Nghiên cứu của Earl J. McGrath (1970)[10]trình bày về các lý do chấp nhận và phản
đối sự tham gia của sinh viên trong QTĐH. Nghiên cứu thể chế sinh viên của Zuo Bing (1999) đã chứng minh
rằng sinh viên hoàn toàn có khả năng điều hành công việc, có thể đáp ứng được
các nhu cầu khác nhau để bảo vệ các lợi ích chính trị của sinh viên.[6] Tác giả Thierry
M Luescher (2008) nghiên cứu xây dựng mô hình trường ĐH dân chủ để cung cấp một
quan điểm lý thuyết và thực nghiệm về sự tương tác giữa các trường ĐH dân chủ,
và gia tăng sự ảnh hưởng của sinh viên
đến các hoạt động quản lý, điều hành trong QTĐH.[34] Gần đây, các cuộc tranh luận về nghệ
thuật quản trị hiện đại đã nhận định rằng sinh viên hầu như không có
được các
tính năng của nhà quản trị thực thụ, trừ khi xem
xét họ là các
khách hàng[8]. Do
vậy, để tiếp tục mở
rộng sự tham gia của sinh viên trong QTĐH, từ ngày 12-14 tháng 6 năm 2003 tại
Oslo- Na Uy, các bộ trưởng bộ GD Châu Âu tổ chức hội thảo với chủ đề “Vai trò
của sinh viên trong QTĐH” (Student participation in governance in higher
education) nhằm thống nhất về vai trò của sinh
viên trong trường ĐH và đề xuất các
giải pháp chung. Một chủ đề được thảo luận trong hội thảo này là “sinh viên: người cộng sự hay khách
hàng?”. Đa số đại biểu nhất trí rằng cần phải xem sinh viên vừa là khách hàng
vừa là người cộng sự. [1]
Ở Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của người học đã được khẳng
định trong luật GD, trong điều lệ trường ĐH- CĐ, trong quy chế đào tạo, quy chế
HS-SV, trong các bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng,v.v…Ví dụ, quy chế
42/2007 (Quy chế HSSV) của Bộ GD& ĐT có ghi: Sinh viên “Được trực tiếp
hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị với nhà trường các giải
pháp góp phần xây dựng nhà trường; được đề đạt nguyện vọng và khiếu nại lên
Hiệu trưởng giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích chính đáng
của HSSV”[12]. Mặc dù vậy, cho đến nay chưa
nhiều những nghiên cứu về vấn đề sinh viên trong QTĐH. Nhìn chung, các nghiên
cứu về vấn đề này ở trong nước còn rất hạn chế. Cho nên, việc đánh giá chính
xác về vai trò, vị trí của sinh viên, các tổ chức sinh viên trong công tác QTĐH
ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn. Muốn thực hiện được là cả một quá trình lâu dài, dựa trên nền tảng lý luận và
thực tiễn vững chắc, phải được sự quan tâm đầu tư của toàn xã hội. Chúng ta cần
có các công trình nghiên cứu và đánh giá nghiêm túc các tồn tại trong công tác
QTĐH ở Việt Nam nói chung, bao gồm vấn đề vai trò của sinh viên trong các hoạt
động QTĐH. Điều này không chỉ phù hợp đối với các trường ĐH trên thế giới mà
còn rất cần được quan tâm trong các trường ĐH-CĐ ở Việt Nam hiện nay. Do vậy, tác
giả chọn nghiên cứu đánh giá vai trò của sinh viên trong QTĐH là hoàn toàn hợp
lý. Qua đó, cung cấp góc nhìn mới vào bức trang toàn cảnh về vấn đề sinh
viên trong
QTĐH hiện nay tại Việt Nam.
Tuy nhiên, nẩy sinh vấn đề là lý do nào để chấp nhận sinh viên
tham gia vào quản trị nhà trường và cơ sở nào để đo
lường đánh giá vai trò của sinh viên trong QTĐH. Sau nghiên cứu sơ bộ, tác giả
đề xuất vận dụng mô hình quản trị phổ biến nhất
trong quản trị các trường ĐH Hoa Kỳ hiện nay đó là mô hình quản trị chia sẻ
(shared governance)[3]. Bởi trong mô hình quản
trị chia sẻ (shared governance), thẩm quyền
và quyền lực được phân phối cho nhiều người, các hoạt động quản
trị luôn được nhiều thành viên khác nhau
trong nhà trường cùng tham gia thực hiện, trong đó có sinh viên. Đồng thời,
để đảm bảo cơ sở lý thuyết cho việc điều tra, khảo sát định lượng
về mức độ tham gia và nhận thức vai trò của sinh
viên trong các hoạt động QTĐH tại trường
CĐSP Gia Lai, tác giả đề xuất vận dụng các mức độ tham gia theo khuyến
nghị được nêu ra tại Hội thảo Oslo, Na Uy diễn ra từ ngày
12-14/6/2003 đó là 3 mức độ gồm; (1)
Tham vấn (advising),(2) Giám sát (monitoring), (3) Ra quyết đinh (decision
making). Bên cạnh đó, để đưa ra các chỉ báo chính xác phục vụ
thiết kế bảng hỏi đảm bảo tính xác thực và tin cậy, tác giả còn kết hợp với các
quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về
quyền và trách nhiệm của người học trong nhà trường nói chung, trong công tác
quản lý, quản trị trường tại trường CĐSP Gia Lai
nói riêng.
Tổ chức trường ĐH cũng là
một tổ chức xã hội, tồn tại các quan hệ xã hội khác nhau, với vai trò và vị thế
của các cá nhân khác nhau trong đó có vai trò và vị thế của sinh viên [4]. Vì vậy, muốn SV gia
nhập vào tổ chức trường ĐH một cách tích cực, có ý nghĩa thì không chỉ mỗi cá
nhân SV mà tất cả các cá nhân khác, bộ phận khác cần phải ý thức rõ vị trí, vị
thế, vai trò của sinh viên trong tổ chức trường ĐH. Trong bài viết này, thống
nhất cách hiểu về vai trò của sinh viên trong QTĐH là việc từng cá nhân sinh
viên thể hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn của mình ở các mức độ khác nhau tùy
vào từng hoạt động cụ thể theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan, theo các chuẩn mực về vai trò và vị trí của sinh viên trong QTĐH trên thế
giới khi sinh viên tham gia đóng góp vào các hoạt động QTĐH.
Để đảm bảo cơ sở lý thuyết cho việc điều tra, khảo sát định
lượng, trong nghiên cứu đề xuất sử
dụng 3 mức độ tham gia của sinh viên theo khuyến nghị tại hội Hội nghị của 29
bộ trưởng bộ GD các nước Châu Âu diễn ra từ ngày 12-14/6/2003 tại Oslo, Na Uy
nhằm xác định các mức độ tham của sinh viên trong các hoạt động QTĐH đó là: 1/Tham vấn (advising), 2/Giám sát (monitoring), 3/ Ra quyết đinh
(decision making).[5]
+ Tham vấn: Có thể hiểu là được lấy ý kiến về một hay nhiều vấn đề nào
đó. Theo tài liệu tập huấn về công tác tham vấn cho trẻ em
của Quỹ Nhi đồng Liên hợp
Quốc (UNICEF)- năm 2005 tại Hà Nội “Tham
vấn không giống như một cuộc nói chuyện. Tham vấn là một mối quan hệ, một quá
trình trong đó nhà tham vấn giúp thân chủ cải thiện cuộc sống của họ bằng cách
khai thác, hiểu và nhìn nhận được nội
dung, ý nghĩa, cảm giác và hành vi của họ. Nhà tham vấn không giải quyết vấn đề
cho thân chủ”. Như vậy, trong QTĐH, người tham vấn ở đây được hiểu chính là
sinh viên, còn
người được tham vấn chính là các cán bộ lãnh đạo, quản lý trong trường ĐH.
Thông quan các hoạt động tham vấn sinh viên, sẽ giúp cho các nhà quản trị có
thêm những lựa chọn, tính toán trong
việc ra các quyết định, quyết sách trong phạm vi trường ĐH được hợp lý và hiệu
quả hơn.
+ Giám
sát: Trong bài viết này, thống nhất cách hiểu giám sát là việc sinh
viên kết hợp với các bộ phận có liên quan trong trường ĐH thực hiện việc thu
thập và phân tích các thông tin về việc thực hiện các mục tiêu, kế hoạch chiến
lược cũng nhưng những mục tiêu, kế hoạch và các hoạt động đào tạo, nghiên cứu
hằng năm trong nhà trường. Qua những thông tin thu thập được sẽ giúp các nhà có
chức trách trong nhà trường kịp thời ra các quyết định đầy đủ cơ sở khoa học và
tạo nền tảng cho việc đánh giá, rút kinh nghiệm những hoạt động đào tạo và nghiên
cứu, v.v...
+ Ra quyết định: Trong bài viết này, thống nhất cách
hiểu vai trò ra quyết định của sinh viên chính là việc sinh
viên với năng lực nhận thức, những hiểu biết
và kinh nghiệm của bản thân có thể đóng góp vào nội hàm của các khái niệm trong
các quyết định thông qua việc cung cấp kịp thời, đầy đủ và có chọn lọc các
thông tin về các hoạt động mà sinh viên
có tham gia. Từ đó, trong giới hạn về quyền và nghĩa vụ của mình sinh
viên có thể lựa chọn các đóng góp tích cực,
hiệu quả vào việc ra các quyết định có liên quan trong phạm vi trường
ĐH. [2]
Theo một số tác giả, trong
tiếng Việt chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa các khái niệm “quản trị”
(governance), “quản lý” (administration), “điều hành” (management). Việc sử
dụng như thế nào một trong ba thuật ngữ này phụ thuộc nhiều vào tình huống cũng
như lĩnh vực áp dụng. Tác giả Phạm Thị Ly (2009) cho rằng, trong Tiếng Việt dường như không có sự
phân biệt rõ rang giữa “governance” (quản trị), “administration” (quản lý) và
“management” (điều hành) mà thường được dịch sang Tiếng Việt thành “quản lý”
với ý nghĩa ít nhiều khác nhau tùy theo bối cảnh sử dụng.[3]
Trong bài viết này, thống nhất cách hiểu và sử dụng QTĐH là
khái niệm dùng để chỉ quá
trình và các hoạt động liên quan tới việc hoạch định, định hướng mọi hoạt động tổ chức. Đồng thời QTĐH là quá trình hướng dẫn và giám sát việc thực hiện các mục tiêu của trường ĐH thông qua các kế hoạch chiến lược, các chính sách, các
cơ chế, các quy tắc và các giá trị chung để đạt được mục tiêu và
sứ mạng chung của nhà trường bằng và thông qua các bên có liên quan.
3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là toàn
thể cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện đang công tác, giảng dạy và toàn thể sinh viên năm 2 và
năm 3 các lớp hệ cao đẳng chính quy đang học tập tại trường CĐSP Gia Lai.
Nghiên cứu tập trung vào khảo sát mức độ tham gia của sinh viên, nhận thức của sinh
viên về vai trò của sinh viên trong các hoạt động quản trị
trong nhà trường để đưa ra các đánh giá ban đầu về vai trò của sinh viên trong
QTĐH. Việc đánh giá vai trò của sinh viên thông qua mức độ tham gia, đóng góp
của sinh viên vào việc thực hiện các chức năng quản trị:
1/ Hoạch định chiến lược đào tạo; 2/ Tổ chức và điều hành công việc; 3/Kiểm
tra/kiểm soát các hoạt động của tổ chức trong các hoạt động QTĐH gồm: 1. quản trị hệ thống tổ chức; 2. quản
trị hoạt động đào tạo; 3. quản trị nguồn
nhân lực; 4. quản trị hoạt động khoa học và công
nghệ. Trong nghiên cứu sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và
nghiên cứu định lượng nhằm đi sâu, khám phá và phản ánh đầy đủ, chính xác mức
độ tham gia, nhận thức của chính sinh viên, CBLĐ- QL về vai trò của sinh viên
trong các hoạt động QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai. Những phương pháp nghiên cứu
bao gồm: Phương
pháp phân tích tài liệu; Phương pháp phỏng vấn sâu; Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; Xử lý và phân
tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS 17 và Excel 2007.
Quy
trình nghiên cứu gồm 5 bước, bắt đầu từ nghiên cứu sơ bộ cho đến khi khảo sát
chính thức, thu thập và xử lý dữ liệu phục vụ viết báo cáo. Sau nghiên cứu sơ
bộ, có được
bộ công cụ thập dữ liệu gồm phiếu khảo sát thông tin định lượng đối với sinh viên và phiếu
gợi ý phỏng vấn sâu nhóm cán bộ LĐ-QL. Để thu thập
thông tin chính phục vụ cho nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát bằng
phiếu hỏi đối với sinh viên
và phỏng vấn sâu đối với các CBLĐ- QL các cấp trong nhà trường. Với khảo sát
định lượng, tính đại diện của mẫu nghiên cứu được đảm bảo bằng cách chọn ngẫu
nhiên hệ thống. Dung lượng mẫu là 377 sinh viên (377/900 SV) trong nghiên cứu
trường hợp được thực hiện tại trường CĐSP Gia Lai. Với phỏng vấn sâu, mẫu
nghiên cứu được chọn chủ đích và thực hiện phỏng vấn sâu 12 người là CBLĐ- QL
các cấp trong nhà trường nhằm bổ sung thêm các thông tin định tính và là cơ sở
đối sánh với kết quả khảo sát định lượng từ sinh viên.
Theo đề xuất ban đầu, có 3 mức độ sử dụng để đánh giá sự tham
gia của sinh viên trong 4 hoạt động QTĐH trong phạm vi nghiên cứu. Tuy nhiên,
xét trong thực tế hoạt động quản lý trong các trường ĐH-CĐ hiện nay, căn cứ các
quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quyền
và thẩm quyền của sinh viên ở Việt Nam cho thấy, hầu như sinh viên chỉ mới tham
gia ở hai mức độ là Tham vấn và Giám sát. Do vậy, trong nghiên
cứu chỉ có 2 mức độ được sử dụng và có 21 biến định lượng để đo lường mức độ
tham gia, đo lường mức độ nhận thức của sinh viên về vai trò của sinh viên
trong các hoạt động quản trị bao gồm: 6 biến quan
sát trong khảo sát các hoạt động quản trị hệ thống
tổ chức; 5 biến quan sát trong khảo sát các hoạt động quản
trị nguồn nhân lực; 7 biến quan sát trong khảo sát các hoạt động quản trị hoạt động đào tạo và 3 biến quan sát trong khảo
sát các hoạt động quản trị hoạt động khoa học và
công nghệ. Sau khảo sát, tác giả phân tích và đánh giá thang đo bằng phương
pháp phân tích nhân tố khám phá EFA và kiểm định hệ số tin cậy Cronbach Alpha. Kết quả là các biến quan sát
trong 4 nhóm biến quan sát không bị loại bỏ và thang đo được sử dụng
trong nghiên cứu là phù hợp.
Ngoài ra, trong khảo sát định lượng có 8 biến dùng để khảo
sát, đánh giá các khó khăn có ảnh hưởng đến sinh viên khi tham gia vào QTĐH và 8
biến dùng để khảo sát để đưa ra các đề xuất về giải pháp nhằm tạo điều kiện cho
sinh viên tham gia vào QTĐH.
4. Kết quả nghiên cứu
Trong nghiên cứu, thực hiện phỏng vấn sâu
12 người là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong nhà trường nhằm thu thập
những ý kiến, những phân tích, nhận định và đánh giá của các cán bộ
lãnh đạo, quản lý các
cấp trong nhà trường xoay quanh một số các nội dung như: quyền và khả năng,
năng lực của sinh viên trong các hoạt động QTĐH; đánh giá thực tế vấn đề sinh
viên tham gia QTĐH trong nhà trường hiện nay; những lợi ích mạng lại nếu sinh
viên tham gia vào quản trị nhà trường;
tìm hiểu một số các khó khăn trở ngại và đồng thời đưa ra các giải pháp khắc
phục. Qua phỏng vấn sâu, giúp nhà nghiên cứu nắm bắt được quan điểm của các cán bộ
lãnh đạo, quản lý về
vai trò của sinh viên trong QTĐH, các khó khăn và trở ngại sinh viên có
thể gặp phải khi tham gia vào QTĐH trong trường. Bên cạnh đó, phỏng vấn sâu còn
giúp tìm hiểu, khám phá sâu các chiều cạnh khác nhau về vấn đề vai trò của sinh
viên trong QTĐH. Kết quả phân tích dữ liệu từ băng ghi âm phỏng vấn
sâu nhóm CBLD-QL (12 người) các cấp trong nhà trường cụ thể như sau:
Khi được hỏi về quyền và
khả năng tham gia đóng góp của sinh viên vào các hoạt động quản trị trong nhà trường, có 12/12 ý kiến (100%) cho
rằng sinh viên là một bên có liên quan đến
các lợi ích trong phạm vi nhà trường, vì vậy sinh viên cũng chịu trách nhiệm trong việc xây dựng phát
triển nhà trường. Sinh viên hoàn toàn có quyền và có đủ năng lực nhận thức,
kiến thức cũng như kinh nghiệm để có thể tham gia vào các hoạt động nói chung,
các hoạt động quản trị trong nhà trường nói riêng.
Có
8/12 ý kiến (66.67%) cho rằng việc sinh viên tham gia vào các
hoạt động quản trị nhà trường là quan trọng. Theo các ý kiến, nếu xét theo quan điểm trường
ĐH là một tổ chức dân chủ, là nơi cung ứng dịch vụ thì sinh viên có đầy đủ vai trò, vị trí và vị thế trong tổ chức
nên những đóng góp của sinh viên là
không thể thiếu trong việc xây dựng và phát triển các tổ chức trường ĐH. Có
4/12 ý kiến (33. 33%) cho rằng chưa hoặc ít cần thiết phải có sự tham gia của sinh
viên vào công tác tổ chức, quản lý nhà
trường.
Khi được hỏi về thực tế sự tham gia của sinh viên trong các
hoạt động quản trị tại trường CĐSP Gia Lai hiện
nay như thế nào? Có 10/12 ý kiến (83.33%) cho rằng sinh viên có tham gia trong
hầu hết các hoạt động quản trị trong nhà trường có
liên quan đến người học. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau nên những đóng góp
của sinh viên là không đáng kể và vai trò của họ là tương đối mờ nhạt.
Khi được hỏi về những lợi ích, những ảnh hưởng tích cực có
thể mang lại đối với hiệu quả QL, quản trị trong nhà
trường từ sự tham gia vào các hoạt động quản trị
của sinh viên. Kết quả có 11/12 ý kiến (91.67%)
cho rằng: nếu sinh viên có cơ hội tham gia vào các hoạt động quản trị nhà trường thì trước hết nó phát huy được tính
dân chủ và tạo ra động lực để các cá nhân trong tổ chức tự giác tham gia đóng
góp, xây dựng phát triển nhà trường. Bên cạnh đó, việc chấp nhận sinh viên tham
gia vào các hoạt động QTĐH là tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội học tập,
rèn luyện để phát triển năng lực xã hội, năng lực công dân của chính mình và
đây chính là một trong những mục tiêu của giáo dục hiện đại.
Khi được hỏi về những khó
khăn, trở ngại sinh
viên thường gặp phải khi tham
gia vào các hoạt động quản lý, quản trị
trong nhà trường. Có 12/12 ý kiến (100%) cho rằng sinh viên gặp không ít khó khăn khi tham
gia vào công tác quản trị trong nhà
trường. Trong số những khó khăn được nêu ra, có không ít các khó khăn về vấn đề
cơ chế, chính sách quản lý, hay chưa có các quy định và tiền lệ về sự tham gia của
sinh viên
trong công tác quản lý nhà trường. Bên cạnh đó là một số khó khăn xuất phát từ
chính bản thân người học. Kết quả xoay quanh một số các khó khăn về khách quan như:
Chưa có những qui định cụ thể về vai trò, chức
năng và quyền lợi của sinh viên trong các đơn vị quản trị từ cấp bộ môn
cho đến cấp trường; Chưa có những chế độ, chính sách hợp lý về lâu dài cũng như ngắn hạn để khuyến khích sự tham của sinh viên trong các hoạt động QTĐH; Không có nhiều cơ hội để sinh viên có thể chia sẻ trách nhiệm
trong các hoạt động quản trị trong nhà trường; sinh
viên hầu như chưa nhận được
sự tin tưởng của các bên liên quan như cán bộ
lãnh đạo, quản lý, cán bộ nhân viên, giảng
viên, v.v…Bên cạnh đó, các khó khăn xuất
phát từ phía người học cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc sinh viên
tham gia vào QTĐH như: sinh viên còn hạn chế về năng lực nhận thức, về kiến
thức quản trị; sinh viên còn hạn chế về kinh nghiệm
quản lý, quản trị; sinh viên còn thiếu tự tin; sinh
viên còn hạn chế về tầm ảnh hưởng đến việc ra các quyết định liên quan đến sinh
viên.v.v…
Cuối cùng, khi được hỏi
làm thế nào để có thể tạo cơ hôi cho sinh viên tham gia nhiều hơn vào công tác quản trị trong nhà trường, đa số người được hỏi đều cho
rằng cần phải có định hướng lâu dài và các kế hoạch cụ thể về vấn đề sinh viên tham
gia công tác quả lý nhà trường. Cần có các giải pháp thiết thực, gắn liền những
hạn chế đã nêu ra để nhằm đề ra các giải pháp khắc phục những khó khăn chủ quan
và khách quan ảnh hưởng đến việc sinh viên tham gia vào công việc đóng góp xây
dựng và phát triển nhà trường.
Về Mức độ tham gia:
Số liệu ở Hình 4.1 cho ta
thấy, tại trường CĐSP Gia Lai, mức độ tham gia của sinh viên là rất thấp và hầu
như sinh viên không bao giờ được tham gia trong hầu hết các hoạt động quản trị. Ví dụ như, trong các hoạt động quản trị hệ thống tổ chức (mean =1.72), quản trị nguồn nhân lực (mean =1.75), quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ (mean
=1.44). Trong đó, mức độ tham gia của sinh viên vào các hoạt động quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ là
thấp nhất (mean=1.44), mức
độ tham gia của sinh viên trong các hoạt động trong quản
trị hoạt động đào tạo có cao hơn nhưng chênh lệch là không nhiều (mean
=1.94).
Về Mức độ nhận thức:
Số liệu ở Hình 4.1 cho ta
thấy, đa số sinh viên đều cho rằng họ có vai trò quan trọng trong hầu hết các
hoạt động quản trị (mean =3.89). Ví dụ,
trong các hoạt động quản trị hệ thống tổ chức (mean
=4.02), quản trị nguồn nhân lực (mean =3.81),
quản trị hoạt động đào tạo (mean =4.14), quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ (mean
=3.58). Trong đó, nhận thức của sinh viên về vai trò của bản thân trong quản trị hoạt động đào tạo là cao nhất (mean =4.14),
nhận thức về vai trò của bản thân họ trong các hoạt động trong quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ là
thấp nhất (mean =3.59).
Hình 4.1. Biểu đồ so sánh mức độ tham gia trong thực
tế vài mức độ nhận thức của sinh viên về vai trò sinh viên trong hoạt động QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai
- Kết quả khảo sát những
thách thức, khó khăn đối với sinh viên khi tham gia
vào các hoạt động QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai
Hình
4.2. Biểu đồ thống kê tỷ lệ % những khó khăn, trở ngại có ảnh hưởng đến sinh
viên khi tham gia vào các hoạt động QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai
Kết nghiên cứu được thể
hiện ở Hình 4.2 cho thấy, đa số sinh viên được hỏi đều cho rằng các yếu tố được
nêu ra đều là những tác nhân gây khó khăn, trở ngại đối với sinh viên khi họ
tham gia vào các hoạt động QTĐH trong trường CĐSP Gia Lai cụ thể:
Bảng 4.1. Thống kế tỷ lệ % kết quả thống
kê các nhóm yếu tố gây khó khăn, trở ngại
TT
|
Đề xuất
đối với các yếu tố khách quan
|
Đề xuất
đối với các yếu tố chủ quan
|
1
|
80,6%
|
73,1%
|
2
|
100,0%
|
96,9%
|
3
|
100,0%
|
99,2%
|
4
|
93,9%
|
98,1%
|
Trung
bình %
|
93,63%
|
91,83%
|
Qua kết quả Bảng 4.2 cho thấy, trong 8 yếu tố tác động và hạn
chế sự tham gia của sinh viên trong QTĐH, gồm nhóm các yếu tố khách quan (từ 1
đến 4) và nhóm các yếu tố chủ quan (từ 5 đến 8). Kết quả có trung bình tỷ lệ
phần trăm lựa chọn nhóm các yếu tố khách quan là 93.63%, trung bình tỷ lệ phần
trăm lựa chọn nhóm các yếu tổ chủ quan là 91.83%. Qua kết quả, cho thấy sinh
viên cho rằng ảnh hưởng của nhóm yếu tố khách quan đến sự tham gia của sinh
viên trong các hoạt động quản trị là cao hơn so với
nhóm các yếu tố chủ quan.
- Kết quả khảo sát ý kiến nhằm
đề xuất các giải pháp cần thiết để tạo cơ hội cho sinh viên tham gia
nhiều hơn vào QTĐH trong nhà trường
Hình
4.3. Biểu đồ thống kê kết quả những đề
xuất nhằm tạo cơ hội để sinh viên có thể tham gia nhiều hơn vào QTĐH tại trường CĐSP Gia Lai.
Qua căn cứ vào các yếu tố
chủ quan và khác quan có ảnh hưởng đến sự tham gia của sinh viên trong các hoạt
động quản trị, tác giả đề xuất 8 giải pháp và tiến
hành khảo sát. Trong đó, bao gồm nhóm giải pháp nhằm giải quyết các yếu tố khó
khăn, trở ngại khách quan (1 đến 4) và nhóm giải pháp nhằm giải quyết các yếu
tố khó khăn, trở ngại chủ quan (5 đến 8). Số liệu ở Hình 4.3 cho thấy,
đa số sinh viên được hỏi đều cho rằng để tạo các điều kiện thuận lợi nhằm hỗ
trợ cho sinh viên có thể tham gia, chia sẻ trách nhiệm trong công tác QTĐH
trong nhà trường, việc đề xuất các giải pháp là hết sức cần thiết. Với kết quả
khảo sát được ở Bảng 4.2 có, có trung bình
chung tỷ lệ phần trăm đề xuất nhóm giải pháp khách quan là 98.70%, trung bình
chung tỷ lệ phần trăm đề xuất nhóm giải pháp chủ quan là 88.18%. Qua kết quả
thống kê cho thấy, đa số sinh viên
cho rằng rất cần thiết phải có giải pháp để khắc phục các khó khăn, trở ngại
khách quan lẫn chủ quan, trong đó các giải pháp khắc phục các yếu tố trở ngại
khác quan là cần thiết hơn như: cần có các chế độ, chính sách hợp lý để tạo
điều kiện cho sinh viên tham gia vào
công tác quản trị nhà trường, cần có những qui định cụ thể về vai trò, chức năng, quyền
lợi của các đại biểu là sinh viên
trong các đơn vị quản trị từ cấp bộ môn cho đến cấp trường, hay sinh
viên cần được tạo cơ hội để chia sẻ trách
nhiệm trong các hoạt động quản trị, v.v…
Bảng 4.2. Thống
kê tỷ lệ phần trăm kết quả đề xuất nhằm giải quyết các nhóm yếutố gây khó khăn, trở ngại
TT
|
Đề xuất đối với các yếu tố khách quan
|
Đề xuất
đối với các yếu tố chủ quan
|
1
|
99,20%
|
88,60%
|
2
|
98,90%
|
95,80%
|
3
|
100,00%
|
93,60%
|
4
|
96,70%
|
74,70%
|
Trung bình tỷ lệ %
|
98,70%
|
88,18%
|
5. Diễn giải kết quả và kết luận
Qua kết quả nghiên cứu chỉ
ra rằng: Dù mức độ tham gia của sinh viên trong các hoạt động quản trị là rất thấp. Tuy nhiêu, sinh viên đã và đang có tham
gia vào QTĐH trong phạm vi trường CĐSP Gia Lai, phù hợp với các quy định về quyền
và nghĩa vụ của người học. Cụ thể;
Ngoại trừ trong một số
rất ít các hoạt động của quản trị hệ thống tổ chức,
quản trị nguồn nhân lực và trong các hoạt động của
QT hoạt động đào tạo là sinh viên có tham gia nhưng hiếm khi sinh viên mới tham
gia. Còn lại trong các hoạt động quản trị khác, hầu
như sinh viên không bao giờ được tham gia. Do vậy, nhìn chung những đóng góp
của sinh viên trong công tác quản trị nhà trường là
không đáng kể, vai trò của sinh viên còn rất mờ nhạt trong công tác QTĐH tại
trường CĐSP Gia Lai hiện nay. Trong một số hoạt động quan trọng có liên quan
trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của người học, có khi sinh viên không đóng
góp vai trò gì. Ví dụ, tham gia giám sát các hoạt động giảng dạy của giảng
viên; tham vấn về việc đánh giá cán bộ nhân viên, giản viên; tham gia giám sát
việc tổ chức thực hiện các quy chế đào tạo,v.v…
Kết quả nghiên cứu được còn chỉ ra một nghịch lý, trong thực
tế thì mức độ tham gia của sinh viên trong các hoạt động QTĐH tại trường CĐSP
Gia Lai là rất thấp, sự đóng góp của sinh viên là không đáng kể, vai trò của sinh
viên còn rất mờ nhạt. Nhưng ở phương diện nhận thức, đa số các sinh viên, cũng
như các cán bộ lãnh đạo, quản lý đều cho rằng sinh viên cần có một vai trò quan trọng đến mức
rất quan trọng trong hầu hết các hoạt động QTĐH đã được khảo sát tại trường
CĐSP Gia Lai.
Qua so sánh, đối sánh kết quả khảo sát thu thập thông tin định
lượng từ sinh viên và kết quả phỏng vấn sâu nhóm cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong nhà trường đã cho
thấy có những điểm tương đồng về nhận thức về những tồn tại của vấn đề sinh
viên tham gia vào QTĐH trong nhà trường. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, sinh
viên tham gia vào công tác QTĐH trong nhà trường thường vấp phải nhiều khó
khăn, trở ngại. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan như: Còn
thiếu những qui định cụ thể về vai trò, chức
năng, quyền lợi của các sinh viên trong các đơn vị quản trị từ cấp bộ môn
cho đến cấp trường; Chưa có những chế độ, chính sách hợp lý mang tính dài hạn cũng như ngắn hạn; sinh viên thiếu các cơ hội để có thể chia sẻ trách nhiệm trong các hoạt động
QTĐH trong nhà trường; sinh viên chưa hoàn toàn nhận được sự tin tưởng của các bên liên
quan; Chưa có một tiền lệ tốt và cơ sở pháp lý đầy đủ về việc sinh viên có thể
tham gia vào thể chế chính trị trong nhà trường,v.v… Bên cạnh các nguyên nhân
khách quan, một số các khó khăn xuất phát từ chính bản thân người học làm hạn
chế và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc sinh viên tham gia vào QTĐH
như: sinh viên còn hạn chế về năng lực nhận thức và chưa nhận thức đầy đủ về
quyền và trách nhiệm của mình, còn thiếu kiến thức về quản
trị; sinh viên còn hạn chế về kinh nghiệm quản lý, quản
trị; tầm ảnh hưởng đến việc ra các quyết định liên quan đến sinh viên
của sinh viên còn hạn chế .v.v…
Kết quả nghiên cứu được
là hoàn toàn hợp lý với bối cảnh của trường CĐSP Gia Lai hiện nay. Xuất phát từ
lý do khá phổ biến đó là cơ chế tổ chức, quản lý các trường ĐH tại Việt Nam và
không loại trừ trường hợp được nghiên cứu. Ở Việt Nam, Bộ GD&ĐT quản lý chung tất cả các trường ĐH-CĐ về mặt chuyên
môn và hành chính. Vì vậy, các trường ĐH-CĐ gần như không có cơ hội thực hiện
các hoạt động quản trị, mà chỉ là thực thi quản lý
cao cấp, với nhiệm vụ chính là tổ chức thực hiện những chính sách và quy định
của Bộ. Cũng chính lý do này, mà nhà trường còn lúng túng và không định hình rõ
ràng về mô hình QTĐH, còn khó khăn và chưa thành lập được HĐT với số lượng và
các thành phần khác nhau, còn thiếu các cơ chế, các chủ trương chính sách, các
quy định cần thiết và tạo một tiền lệ tốt để sinh viên có cơ hội tham gia, đóng
góp và thể hiện vai trò của mình trong công tác QTĐH trong nhà trường.
Trên cơ sở những phân
tích về kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số gợi ý góp phần vào việc thay
đổi phần nào cung cách, cách thức hoạch định, tổ chức - điều hành và kiểm tra
giám sát các hoạt động đào tạo, nghiên cứu tại trường CĐSP Gia Lai. Cụ thể:
§ Ban lãnh đạo nhà trường
cần linh hoạt, chủ động trong việc hoạch định, tổ chức, quản lý, điều hành và
kiểm tra giám sát các hoạt động đào tạo, nghiên cứu trong phạm vi nhà trường để
vừa đảm bảo đúng quy chế, vừa có thể phát huy hết sự đóng góp của các bên liên
quan, trong đó có sinh viên. Ví dụ, cần cụ thể hóa sự tham gia và đóng góp của sinh
viên vào trong kế hoạch năm học của trường, của các Phòng- Khoa- Ban- Tổ trực
thuộc.
§ Nhà trường cần ban hành
các quy định, hướng dẫn cụ thể về thành phần, số lượng sinh viên trong các Hội
đồng nhà trường, các tổ chức Đoàn thể như: Hội đồng khoa học, Hội đồng xét thi
đua khen thưởng, Hội đồng kỷ luật, Ban thanh
tra trường học, v.v…. Bên cạnh đó, nhà trường cần có các chế độ khen thưởng,
khuyến khích đối với các sinh viên có thành tích đóng góp vào hiệu quả QTĐH
trong nhà trường như: Cấp học bổng cho các sinh viên có thành tích tốt trong
QTĐH, cấp chứng nhận thành tích tham gia, cho phép kéo dài thời gian học đối
với các đại biểu sinh viên tham gia vào QTĐH, v.v…
§ Hằng năm, nhà trường cần có kế hoạch để tổ
chức các lớp học tập, tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của người học đối với
việc xây dựng và phát triển nhà trường. Ví dụ, kết hợp với tuần sinh hoạt chính
trị đầu năm để giáo dục, tuyên cho người học nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa
vụ người học. Qua đó, nhằm giúp nâng cao năng lực nhận thức, kiến thức và tích
lũy kinh nghiệm quản
trị cho
sinh viên.
and
university governance,
Philadelphia, Temple University Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét