NÊN HAY KHÔNG NÊN
ÁP DỤNG CÔNG THỨC TRỪ ĐIỂM ĐOÁN MÒ TRONG TRẮC NGHIỆM THÀNH QUẢ HỌC TẬP
Tóm tắt
Khoa học đo lường trong tâm
lý -giáo dục đã tồn tại, phát triển như là tất yếu của sự phát triển giáo dục và
ngày càng đầy đủ hơn các cơ sở khoa học, các công cụ đo lường để đảm bảo sự
chính xác trong việc đo lường đánh giá giáo dục, trong đó có đo lường đánh giá
thành quả học tập. Bài viết này đề cập đến một số vấn đề về việc trừ điểm đoán
mò trong đo lường và đánh giá thành quả học tập của người học. Trong kiểm tra
đánh giá thành quả học tập ở bất cứ cấp học/bậc học/môn học,v.v.. trong bất kỳ
lĩnh vực giáo dục nào cũng đòi hỏi người thầy phải có một trình độ nhất định
trong việc tính toán thống kê để có thể sử dụng hiệu quả các dạng trắc nghiệm
khác nhau. Ngoài việc cần nắm các chỉ số thống kê cơ bản có liên quan đến các dạng
thức trắc nghiệm khác nhau, khi đề cập đến việc điều chỉnh đoán mò trong chấm
thi TNKQ cũng cần hết sức thận trọng nhằm đảm bảo điểm số cuối cùng phản ánh
khách quan, chính xác năng lực người học.
Từ khóa: đo lường
đánh giá; thành quả học tập; trừ điểm đoán mò.
1.
Một số vấn đề về công thức
trừ điểm đoán mò
Khoa học đo lường trong giáo
dục có thể xem như bắt đầu cách đây khoảng một thế kỷ (Thorndike,1904)[2], trong đó bao gồm sự hình
thành, phát triển của khoa học đo lường và đánh giá thành quả học tập. Trong lịch
sử quá trình phát triển giáo dục, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các dạng
trắc nghiệm thành quả học tập, và có các quan điểm khác nhau về vấn đề đoán mò
trong trắc nghiệm khách quan (TNKQ). Để thuận tiện hơn trong việc quyết định
nên hay không nên sử dụng công thức điều chỉnh đoán mò trong chấm thi TNKQ, bài
viết sẽ khái lượt một số quan điểm có liên quan và đi kèm với đó là các nhận định,
đánh giá.
Theo Willam wiersma Stephen
G.Jurs (1990)[6], bất cứ thí sinh nào khi
tham gia các bài tets TNKQ nhiều lựa chọn đều có cơ hội đoán mò. Trong đó, đối
với câu đúng/sai thì cơ hội đoán đúng là ½ (xác suất là 50/50), khả năng đoán
đúng ở câu hỏi có 4 lựa chọn là ¼ (xác suất là 25/100), câu 5 lựa chọn là 1/5
(xác suất là 20/100). Với câu hỏi ghép đôi có 10 ý thì khả năng đoán đúng là
1/10.
Điều đặc biệt lưu ý ở đây, khi
chúng ta khẳng định thí sinh đoán mò là dựa trên giả thiết rằng những thí sinh trả
lời sai là hoàn toàn không có kiến thức. Nếu xét theo thang Bloom[1] trong phạm trù nhận thức
thì thí sinh đó hoàn toàn không biết, không hiểu hoặc không có khả năng vận dụng/phân
tích/tổng hợp hay đánh giá vấn đề được hỏi. Với giả thiết như vậy và các xác suất
đoán đúng một câu trả lời trong các dạng thức câu hỏi TNKQ đã được đề cập ở
trên, thì không khó để ước lượng được điểm số thí sinh kỳ vọng sẽ có được do
đoán mò.
Thí dụ, cơ hội đoán đúng trong 100 câu hỏi TNKQ có 4 lựa
chọn là 100*1/4 (25%). Biến dao động của
điểm số do đoán mò là N*p*q, mà trong đó N là số câu hỏi trắc nghiệm, p là xác
suất đoán đúng 1 câu hỏi, và q là xác suất trả lời sai. Lúc này ta có công thức
tính điểm số đoán mò mong đợi tất cả các câu hỏi của một test là: N*p. Trong
đó, N là số câu hỏi trắc nghiệm, p là xác suất đoán đúng một câu trắc
nghiệm.
Tuy nhiên, cũng chính vì
cách tính cơ hội đoán đúng hoàn toàn 25 câu trong 100 câu hỏi với 4 phương án
chọn như trên là không hợp lý, dẫn đến tâm lý người sử dụng các dạng TNKQ khác
nhau trong đo lường đánh giá thành quả học tập sẽ trừ điểm đoán mò của người học.
Nhưng để có thể đoán đúng 25% trong tổng số 100 câu TNKQ với 4 lựa chọn là điều
hầu như khó xảy ra, và chúng ta có thể lý giải điều này qua một số tính toán cụ
thể sau:
Ở đây, có thể áp dụng công thức
Bernoulli để tính xác suất đoán mò trong 100 câu trắc nghiệm với 4 phương án lựa
chọn. Vì nếu giả định rằng thí sinh thực hiện n phép thử độc lập (n lần đoán mò,
và kết quả của lần lựa chọn này hoàn toàn không ảnh hưởng đến kết quả của lần lựa
chọn khác). Trong mỗi phép thử (mỗi lần đoán) chỉ xảy ra 1 trong 2 khả năng: chọn
đúng đáp án với xác suất p = ¼ hoặc chọn sai đáp án với xác suất q = ¾ . Xác suất chọn đúng trong mỗi phép thử
đều bằng p. Như vậy, dễ thấy rằng xác suất làm đúng mỗi câu hỏi trong một
đề thi là một biến cố độc lập, lúc này xác suất làm đúng các câu hỏi (các biến
cố độc lập) trong một đề thi là tích xác suất của các biến cố độc lập (các câu
hỏi ấy), và cần áp dụng công thức Bernoulli để tính xác suất:
Công thức Bernoulli:
Thí dụ: Một đề thi có 10 câu trắc
nghiệm 4 lựa chọn, nếu thí sinh làm hoàn toàn là dựa vào đoán mò.
Tính xác suất để thí sinh đó đoán mò đúng được: 8 câu, 9 câu và 10 câu là
bao nhiêu? Xác suất đoán đúng ít nhất một câu là bao nhiêu? Kết
quả là:
Với câu trắc nghiệm 04 lựa chọn,
kí hiệu xác suất đoán đúng một câu là p = 1/4, xác suất đoán sai là
q = 3/4, theo công thức Becnoulli ta có:
- Xác
suất đoán đúng 8 câu là:
- Xác
suất đoán đúng 9 câu là:
- Xác
suất đoán đúng 10 câu là:
- Xác
suất ít nhất đoán đúng một câu là:
P(ít nhất đoán đúng 1 câu) = 1
– P(10 câu hoàn toàn đoán sai) =
Ưu điểm của công thức xác suất nhị
thức Bernoulli là nó có thể tính nhanh chóng đơn giản xác suất của
bất kì điểm số nào đã định hoặc lớn hơn điểm số đã định. Có thể
thấy rằng, nếu thí sinh hoàn toàn dựa vào đoán, thì xác suất đoán
đúng ít nhất 9 câu là:
Tức là trong 100 000 lần thì chỉ
có 3 lần đoán đúng, điều này được hiểu là một việc gần như không thể
xảy ra.
Nhưng chung quy lại, bởi vì về tính toán thì đoán mò
đúng vẫn tồn tại với một xác suất dù rất nhỏ như đã được chỉ ra ở trên, nên trong
khoa học đo lường đánh giá thành quả học tập người ta vẫn điều chỉnh điểm số nhằm
loại trừ điểm đoán mò trong điểm bài làm của thí sinh (trong một số kỳ thi tốc
độ)[3] với việc sử dụng công thức sau:[6]
Trong đó:
+ Nd
là số câu trả lời đúng
+ Ns
là số câu trả lời sai
+ K
là số phương án lựa chọn trong một câu hỏi
Vận dụng công thức vào các trường hợp cụ thể:
-
Trường hợp 1:
Thí sinh A trả lời 50 câu trắc
nghiệm, mỗi câu có 5 lựa chọn. Nếu A chắc chắn trả lời đúng 30 câu hỏi (được 30
điểm), 20 câu hỏi còn lại A hoàn toàn đoán mò và đúng 10 câu (10 điểm) kết quả điểm
bài làm của thí sinh A là 40 điểm, nếu áp dụng công thức điều chỉnh điểm đoán
mò và có điểm bài làm của thí sinh A sau khi trừ điểm đoán mò như sau:
-
Trường hợp 2:
Thí sinh A trả lời 50 câu trắc
nghiệm, mỗi câu có 5 lựa chọn. Nếu A chắc chắn trả lời đúng 10 câu hỏi (được 10
điểm), 40 câu hỏi còn lại A hoàn toàn đoán mò và tất cả điều sai, kết quả điểm
bài làm của thí sinh A là10 điểm, nếu áp dụng công thức để điều chỉnh điểm đoán
mò, có điểm bài làm của thí sinh A sau khi trừ điểm đoán mò như sau:
-
Trường hợp 3:
Thí sinh A trả lời 50 câu trắc
nghiệm, mỗi câu có 5 lựa chọn. Nếu A chắc chắn trả lời đúng 5 câu hỏi (được 5
điểm), 45 câu hỏi còn lại A hoàn toàn đoán mò và tất cả điều sai, kết quả điểm
bài làm của thí sinh A là 5 điểm, nếu áp dụng công thức để điều chỉnh điểm đoán
mò, có điểm bài làm của thí sinh A sau khi trừ điểm đoán mò là như sau:
-
Trường hợp 4:
A trả lời 50 câu trắc nghiệm,
mỗi câu có 2 lựa chọn. Nếu A đoán mò hoàn toàn 50 câu và đúng 25 câu hỏi (xác
suất trả lời đúng với câu hỏi 2 lựa chọn là 50/50), nếu áp dụng công thức để điều chỉnh điểm đoán mò,
có điểm bài làm của thí sinh A sau khi trừ điểm đoán mò là như sau:
-
Trường hợp 5:
A trả lời 50 câu trắc nghiệm,
mỗi câu có 2 lựa chọn. Nếu A đoán mò hoàn toàn 50 câu và đúng 20 câu hỏi (xác
suất trả lời đúng với câu hỏi 2 lựa chọn là 50/50), nếu áp dụng công thức để điều
chỉnh điểm đoán mò, có điểm bài làm của thí sinh A sau khi trừ điểm đoán mò là như
sau:
Theo Willam wiersma Stephen
G.Jurs (1990), trước đó và cho đến thời điểm của ông thì nhiều tác giả đã khẳng
định việc áp dụng công thức trừ điểm đoán mò là không cần thiết.
Chúng ta cũng cần lưu ý là theo
tác giả Thorndike & Hagen [5], trong công thức trừ điểm
đoán mò đã chỉ rõ ràng rằng những câu hỏi mà thí sinh không đưa ra phương án trả
lời (bỏ trống) là hoàn toàn không được tính đến trong công thức. Nếu như vậy, không
cẩn thận khi áp dụng công thức trừ điểm đoán mò sẽ dẫn đến đánh đồng giữa việc
thí sinh trả lời sai do đoán mò với những thí sinh không trả lời.
Thí dụ qua trường hợp sau: Một bài test có 50 câu hỏi, thí sinh A
trả lời đúng 40/50 câu và bỏ trống không trả lời 10 câu hỏi (vì thí sinh không
biết và không đoán mò), thí sinh B trả lời đúng 40/50 câu và trả lời sai 10 câu
hỏi ( thí sinh không biết nhưng vẫn đoán mò). Khi đó, nếu điều chỉnh điểm đoán
mò mà không tính đến việc thí sinh làm sai do đoán mò hay thí sinh bỏ trống câu
trả lời, dẫn đến việc trừ điểm đoán mò sẽ làm sai lệch điểm số thực của thí
sinh, kết quả bài thi không đánh giá đúng năng lực người học.
2.
Nên hay không nên áp dụng
công thức đoán mò
Theo tác giả Dương Thiệu Tống (1995)[3], hầu như những ai mới sử dụng
TNKQ cũng thường áp dụng việc trừ điểm để ngăn chặn đoán mò. Tác giả đã khẳng định
“đây là một quan điểm sai lầm trong lĩnh vực trắc nghiệm, nhất là với những trắc
nghiệm ở lớp học”. Vì trắc nghiệm trong đánh giá lớp học là loại trắc nghiệm
khác hoàn toàn với trắc nghiệm tốc độ (speed test). Trong trắc nghiệm lớp học,
thời gian trả lời một bài trắc nghiệm là đủ dài và khá thỏa mái để mọi thí sinh
có thể đọc và trả lời các câu hỏi với kỳ vọng mình có thể đạt điểm số cao nhất
(phân bố điểm ở đỉnh cao nhất). Với tính chất như vậy, những sự khác biệt về
năng lực giữa các thí sinh sẽ được giảm thiểu.
Ngược lại, trong trắc nghiệm
tốc độ, thí sinh phải đưa ra câu trả lời nhanh chóng trong một khoảng thời gian
rất hạn chế, mà kể cả những thí sinh nhanh nhất cũng không thể trả lời hết các
câu hỏi. Trong trường hợp này, nếu ta chỉ căn cứ vào những câu trả lời đúng để
cho điểm thì khi đó chỉ có lợi cho các em làm nhanh mà đôi khi không cần đọc
câu hỏi. Vì ở đây, có thể thí sinh trông chờ vào yếu tố may rủi để đạt được điểm
số cao và khi đó việc trừ điểm đoán mò là hợp lý.
Tác giả Dương Thiệu Tống cũng
khẳng định, công thức này chỉ nên áp dụng với loại trắc nghiệm tốc độ như đã đề cập ở trên. Việc trừ điểm đoán mò hoàn toàn không có giá trị thực tiễn nào với các loại
trắc nghiệm dùng trong lớp học hay các trắc nghiệm trong các kỳ thi, khi tất cả
thí sinh đều có cơ hội đọc và trả lời mọi câu hỏi.
Theo tác giả Norman E
Gronlund (1982)[4], trong các bài kiểm tra
thành quả học tập mà giáo viên sử dụng để kiểm tra kiến thức, kỹ năng cũng như thái
độ của người học là không nên điều chỉnh điểm đoán mò. Vì các vấn đề được kiểm
tra trong bài kiểm tra luôn phải liên quan đến nội dung cần kiểm tra và có quan
hệ chặt chẽ với thí sinh, cùng với thời gian là đủ để mọi thí sinh có thể xem
xét cẩn thận tất cả các câu hỏi của một bài kiểm tra. Việc thí sinh lựa chọn một
phương án trả lời (có thể sai) là luôn luôn dựa vào một hay nhiều khía cạnh của
vấn đề được hỏi. Do vậy, tác giả Norman E Gronlund đã khẳng định “việc đoán mò
không hoàn toàn bị phản đối theo quan điểm giáo dục”.
Nên hay không nên điều chỉnh
điểm do đoán mò, nếu muốn áp dụng thì trước hết chúng ta cần quan tâm, xem xét
đến một số điểm lợi và bất lợi của việc áp dụng công thức trừ điểm đoán mò như
sau[3]:
- Thứ nhất: Thứ hạng của thí sinh được xếp hạng theo điểm đã trừ điểm đoán
mò là thay đổi không đáng kể so với thứ hạng điểm khi không trừ điểm đoán mò.
- Thứ hai: Xác suất để có được điểm số cao hoàn toàn bằng lối đoán mò
trên một bài trắc nghiệm là rất nhỏ nhoi.
- Thứ ba: Nếu có đủ thời gian làm
bài, thì hầu như mọi thí sinh đều cố gắng hết mức có thể để có thể đạt được điểm
số cao nhất dựa vào năng lực của bản thân. Nếu có đoán thì cũng phải suy luận ở
mức độ nhất định với một số câu hỏi không đáng kể.
- Thứ tư: Những phỏng đoán có tính toán của thí sinh trong việc lựa chọn
một phương án trả lời cho một câu hỏi (mặc dù trả lời sai) vẫn cung cấp những
thông tin hữu ích về mức độ đạt thành quả học tập của người học.
- Thứ năm: Việc áp dụng công thức trừ điểm đoán mò chỉ làm rắc rối thêm
cách tính điểm và làm sai lệch đi kết quả bài làm của người học.
- Thứ sáu: Với loại trắc nghiệm tốc độ, việc áp dụng công thức trừ điểm
đoán mò sẽ hạn chế được việc đoán mò của người học mà nhất là những em chậm.
Nhưng lưu ý là phải công khai và thông báo trước cho mọi thí sinh biết là họ sẽ
bị trừ điểm nếu không biết mà vẫn đoán mò.
3.
Kết luận
Mặc dù hành vi đoán mò là đáng chê trách trong giáo dục,
tuy nhiên trong chừng mực nhất định nào đó khi đưa ra một quyết định trả lời
thì các thí sinh luôn luôn căn cứ vào một hay nhiều khía cạnh của vấn đề mà câu
hỏi đặt ra, và dựa vào năng lực của bản thân. Việc thí sinh trả lời sai có thể
do thí sinh nhận thức chưa đầy đủ vấn đề câu hỏi đặt ra chứ không hẳn thí sinh
đoán mò. Hơn nữa, trong trắc nghiệm lớp học, nếu khẳng định thí sinh kỳ vọng để
có được điểm số cao nhờ vào đoán mò là hết sức thiếu thuyết phục. Có thể thí
sinh trả lời sai một câu hỏi dựa trên sự hiểu biết, sự suy đoán dựa vào cơ sở
không vững chắc, trong trường hợp này vẫn có thể cung cấp các thông tin hữu ích
trong chẩn đoán mức độ hoàn thành khối lượng học tập của nguời học, và cũng như
giúp định hướng cho các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu tiếp theo.
Từ những phân tích trên, bài viết cho rằng chúng ta cần
hết sức cẩn trọng khi quyết định điều chỉnh điểm đoán mò trong chấm thi trắc
nghiệm. Vì việc trừ điểm đoán mò có thể làm sai lệch kết quả bài làm, và không
đánh giá đúng năng lực của người học.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO